Tác động lớn, rủi ro cao
Đây là nỗ lực hợp tác nghiên cứu thiên tai giữa chính phủ Việt Nam với Ngân hàng Thế giới, và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi Thiên tai nhằm đưa ra các tính toán chi tiết về mức độ rủi ro mà người dân, các đô thị ven biển, ngành kinh tế then chốt, hệ thống cơ sở hạ tầng và khu vực dịch vụ công ở khu vực ven biển đang phải đối mặt.
Cụ thể, báo cáo cho biết có khoảng 11,8 triệu người dân khu vực ven biển đang gặp rủi ro cao do bão lũ và hơn 35% khu vực dân cư trong khu vực thuộc diện có nguy cơ sạt lở.
Ước tính mỗi năm, ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và công nghiệp trong khu vực phải hứng chịu thiệt hại khoảng 852 triệu USD (tương đương 0,5% GDP cả nước) và 316.000 lao động bị mất việc do ảnh hưởng của lũ sông và lũ ven biển.
Ngoài ra, 26% các bệnh viện công và trung tâm y tế, 11% các trường học phải đối mặt với rủi ro ngập úng, làm gián đoạn khả năng cung cấp dịch vụ thiết yếu như giao thông vận tải và năng lượng do bão lũ gây ra.
Tính trên bình diện cả nước, thiên tai gây thiệt hại tài sản trung bình hàng năm theo sức mua tương đương lên đến 8,1 tỷ USD và thiệt hại đối với đời sống người dân ước tính vào khoảng 11 tỷ USD.
Theo các chuyên gia, với kịch bản biến đổi khí hậu mới nhất, mực nước biển dự kiến sẽ tăng 30cm vào năm 2050 và 70cm vào năm 2100 thì mức độ rủi ro do bão lũ của khu vực đô thị dự kiến sẽ tăng lên 7%, ảnh hưởng đến thêm 4,5 triệu người ở khu vực ven biển.
Nghiên cứu cảnh cáo nếu không có hành động kịp thời, áp lực từ các hoạt động của con người lên hệ sinh thái, ví dụ như khai thác nước ngầm hay khai thác cát, sẽ làm nghiêm trọng thêm các loại hình rủi ro thiên tai. Đặc biệt khi khu vực ven biển hiện là nơi sinh sống của khoảng một nửa dân số Việt Nam, và các tỉnh thành ven biển đang được coi là động lực chính cho sự phát triển kinh tế.
Đe dọa tăng trưởng bền vững
Hãng tin BBC dẫn báo cho hay, bão lũ, nước biển dâng, hạn hán, sạt lở bờ biển và xâm nhập mặn đang đe dọa sự phát triển của Việt Nam. Hiện gần một phần ba đường bờ biển ở khu vực là các khu đô thị hoặc khu dân cư, với khoảng 46,6 triệu dân, đóng góp 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn quốc tính đến thời điểm năm 2016.
Theo WB, các thành phố thứ cấp ở khu vực ven biển Vệt Nam đang có tốc độ đô thị hóa cao nhất kể từ năm 2012 đến nay. Khảo sát tại Tân An (Thừa Thiên - Huế) và Khe Tân (Quảng Ngãi)- hai khu đô thị được hình thành từ các cồn cát cho thấy nguy cơ rất dễ bị sạt lở. Tại một số nơi, biển đã xâm thực tới 300 mét, khiến hàng trăm hộ dân phải di dời, ảnh hưởng đến sinh kế.
Các phân tích trong báo cáo cho thấy chỉ 19% khu dân cư ven biển là đang ở trong khu vực ổn định, hơn một phần ba đã bị ảnh hưởng do sạt lở ven biển và gần một nửa bị bồi tụ. Còn tại đồng bằng sông Cửu Long, 38% khu vực dân cư ven biển đang phải đối mặt với nguy cơ sạt lở.
Các nghiên cứu cho thấy, sạt lở chủ yếu là do các hoạt động của con người như khai thác quá mức, cơ sở hạ tầng quy hoạch kém, và xây dựng trên các vùng sinh thái nhạy cảm.
Bằng việc phân tích hình ảnh vệ tinh sử dụng đất có độ phân giải cao, các chuyên gia WB đánh giá, 10% sản lượng cây trồng quốc gia, chiếm 4% GDP nông nghiệp, và 1,5 triệu việc làm đang phải hứng chịu các tác động do bão lũ ven biển.
Khoảng 62% ao đìa nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh đồng bằng ven biển của Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ ngập lụt nghiêm trọng, gây thiệt hại 1,1 triệu tấn sản lượng nuôi trồng, tương đương 935 triệu USD xuất khẩu (chiếm 4% GDP nông nghiệp) và 1,5 triệu việc làm. Trong đó, 80% rủi ro này tập trung ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Về công nghiệp, phân tích cho thấy, khoảng một nửa trong số 127 khu công nghiệp ở các tỉnh ven biển phải đối mặt với rủi ro do lũ lụt. Đặc biệt dưới tác động của biến đổi khí hậu, các rủi ro do lũ lụt, hạn hán, sạt lở và xâm nhập mặn sẽ còn trầm trọng hơn, ảnh hưởng đến sinh kế của khoảng 4,5 triệu người ở các tỉnh ven biển.
Ngoài ra, nguy cơ nước biển dâng và hạn hán cũng có thể làm nghiêm trọng thêm mức độ xâm nhập mặn gây khủng hoảng nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt cũng như các ngành công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, đồng thời đẩy chi phí thích ứng lên cao do phải đầu tư máy bơm và các thiết bị khác để duy trì lượng nước và độ mặn thích hợp trong các ao hồ...
Theo WB, việc khai thác quá mức nguồn nước ngầm đã khiến nền đất ở đồng bằng sông Cửu Long bị sụt lún 1 - 3cm mỗi năm, thậm chí có thể lên tới 90cm vào năm 2035 ở một số nơi. Do đó những tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai có thể khiến 1,2 triệu người rơi vào cảnh đói nghèo vào năm 2030.
Khuyến nghị của WB
Các chuyên gia WB đề xuất, chính phủ Việt Nam cần phải cập nhật và duy trì thường xuyên các dữ liệu về thiên tai và có công cụ phân tích đầy đủ để cung cấp cho tất cả các bên liên quan sẽ giúp theo dõi, đánh giá mức độ rủi ro của người dân trước thiên tai; thiết lập cơ sở dữ liệu quản lý đê điều tập trung giúp đánh giá mức độ an toàn cũng như nguy cơ rủi ro; hệ sinh thái ven biển được bản đồ hoá và giám sát một cách hệ thống, hướng đến phục hồi và bảo tồn rừng ngập mặn, rạn san hô, cồn cát, bãi biển…
Mặc dù, hệ thống đê điều của Việt Nam đang bảo vệ cư dân và tài sản khu vực ven biển, nhưng dọc theo bờ biển có rất nhiều điểm nóng đang đứng trước nguy cơ cao bị ảnh hưởng của thiên tai. Do vậy cần tập trung nâng cấp hệ thống đê của các khu vực có rủi ro cao, bao gồm duy tu bảo dưỡng có hệ thống, áp dụng các tiêu chuẩn an toàn tương ứng với cấp độ rủi ro thiên tai, quy mô dân số.
Cần đẩy mạnh các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ứng phó với rủi ro thiên tai, đảm bảo có đủ năng lực dự phòng để hỗ trợ người sử dụng như đội ngũ cán bộ y tế có thể tiếp tục làm việc ngay cả khi cơ sở hạ tầng bị gián đoạn do thiên tai.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định: "Nếu vẫn tiếp tục xu hướng phát triển kinh tế nhanh ở các khu vực có nguy cơ cao như hiện nay thì thiệt hại do thiên tai sẽ gia tăng. Đã đến lúc cần có cách tiếp cận mới nhằm cân bằng giữa rủi ro và cơ hội để các khu vực ven biển Việt Nam có thể tiếp tục là động lực tăng trưởng, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng chống chịu với các cú sốc".
Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch kinh doanh liên tục để có phương án ứng phó kịp thời, tiếp tục hoạt động và góp phần phục hồi nhanh khi thiên tai làm gián đoạn cơ sở hạ tầng.
Việt Nam cũng cần áp dụng các tiêu chuẩn an toàn và hướng dẫn kỹ thuật cho hệ thống cơ sở hạ tầng. Theo đó, cần rà soát và cập nhật các tiêu chuẩn an toàn và quy chuẩn xây dựng áp dụng cho các công trình thiết yếu, tòa nhà, hệ thống đê điều để đảm bảo tính nhất quá giữa các ngành, có tính đến các yếu tố như kinh tế - xã hội, dân số, biến đổi khí hậu; đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để thực hiện.
Hướng dẫn kỹ thuật cần bao gồm quy trình thiết kế và lập kế hoạch, các tiêu chuẩn an toàn có cân nhắc mức độ thiên tai, dân số, giá trị công trình đang gặp rủi ro; đồng thời, xem xét các hạn chế khi triển khai như kinh phí được phân bổ, vật liệu và năng lực bảo trì. Trong đó cần đặc biệt tận dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên thường đem lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ sinh kế ven biển.
Nếu quản lý bền vững, chúng có thể đem lại giá trị kinh tế hữu hình, hỗ trợ du lịch hoặc ngành đánh bắt cá. Tuy nhiên, việc khai thác quá mức và xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng nhân tạo trong những thập kỷ qua đã khiến hệ sinh thái bị suy kiệt. Do đó Việt Nam cần có một hệ thống khí tượng thủy văn đủ năng lực để cảnh báo sớm các thông tin có giá trị thực tiễn cho các đối tượng người dùng khác nhau.