Thời gian 80 năm, đủ để thay đổi nhiều thứ, và thực tế 80 năm đã chứng minh sự biến chuyển khôn lường của thế giới. Bây giờ, Việt Nam đã độc lập và từng bước hội nhập quốc tế, nhưng giá trị của Đề cương Văn hóa vẫn là nền tảng để xây dựng văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Ra đời khi cách mạng Việt Nam vẫn còn trong bóng tối, nhưng ánh sáng của Đề cương Văn hóa đã lan tỏa rộng khắp. Không thể nói khác, chính Đề cương Văn hóa đã kết nối và giục giã nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đi theo cách mạng và đi cùng nhân dân. Hôm nay, đọc lại Đề cương Văn hóa sau 80 năm, không thể không ngạc nhiên về tầm nhìn chiến lược được trình bày một cách rõ ràng và ấn tượng.
Một vấn đề được lưu ý trong Đề cương Văn hóa là chống lại sự nô dịch hóa trong lĩnh vực văn hóa. “Nô dịch hóa” về văn hóa là điều mà ít ai nghĩ đến trước đây. Mãi đến năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO được thành lập mới đưa ra một điều khoản “miễn trừ về văn hóa” nhằm ngăn chặn các nước nhỏ bị nô dịch hóa bởi các nước lớn trong lĩnh vực văn hóa. Nghĩa là, mọi mặt hàng đều có quy định chung và bị chế tài bởi luật chống phá giá, trừ sản phẩm văn hóa. WTO cho phép mọi quốc gia được quyền đầu tư cho văn hóa, trợ giá cho sản phẩm văn hóa mà không e ngại rào cản nào. Một bộ phim có kinh phí sản xuất hàng trăm tỷ vẫn có thể bán vé vài ngàn đồng, một cuốn sách in ấn công phu vẫn có thể phát không đến độc giả. Đó là “miễn trừ về văn hóa”. Đề cương Văn hóa đã nhận diện được nguy cơ “nô dịch hóa” từ rất sớm và đã văn bản hóa một chủ trương bảo vệ văn hóa nước nhà ngay giai đoạn cam go nhất.
Với ba tiêu chí “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa”, Đề cương Văn hóa đã đặt cơ sở để củng cố và phát triển văn hóa Việt Nam. Ý thức “phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm” đến hôm nay vẫn còn là kim chỉ nam cho những nhà hoạt động văn hóa. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, những tác phẩm đi ngược lại truyền thống và cổ súy cho những tư tưởng lệch lạc, sẽ gây ra những hệ lụy khôn lường cho đời sống tinh thần của xã hội. Đề cương Văn hóa đưa ra lời cảnh tỉnh suốt 80 năm qua đã trực tiếp dẫn dắt và uốn nắn hoạt động sáng tác và truyền bá văn học nghệ thuật. Một số luật sau này như Luật Xuất bản hoặc Luật Điện ảnh cũng bám sát và cụ thể hóa ba tiêu chí chủ đạo của Đề cương Văn hóa.
Khi Đề cương Văn hóa ra đời thì văn hóa Việt Nam đang chơi vơi trong chế độ nửa thực dân nửa phong kiến. Văn hóa Việt Nam lúc ấy gần như đã xóa bỏ thuần phong mỹ tục và sa đà vào những mê cung lắt léo học đòi phương Tây. Cho nên, Đề cương Văn hóa nhấn mạnh “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”. Hai yếu tố “dân tộc” và “dân chủ” mang tính quyết định cho sự tồn tại một nền văn hóa. Không có “dân tộc” thì sẽ vong bản, mà không có “dân chủ” thì sẽ lạc hậu. Sự cộng hưởng “dân tộc” và “dân chủ” tạo ra một nền văn hóa của một quốc gia tự trọng, tự lực và tự cường. Sự cộng hưởng “dân tộc” và “dân chủ” xác lập vị trí văn hóa là bước tiến đầu tiên và cũng là chốt chặn sau cùng cho sự thịnh suy của đất nước Việt Nam. Vài năm gần đây, trước trào lưu thâm nhập các dòng văn hóa nước ngoài, thì chúng ta càng thấy nền văn hóa Việt Nam cần phát huy sức mạnh “dân tộc” và “dân chủ”.
Đồng chí Trường Chinh hoạt động văn nghệ với bút danh Sóng Hồng, từng có những năm tháng “Ngựa mỏi đi bước một/ Người suy nghĩ vấn vương/ Nhiều khi ý tưởng lớn/ Vụt đến lúc đi đường”. Vì vậy, khi biên soạn Đề cương Văn hóa, ông nhận ra thực tế đế quốc Nhật “đàn áp các nhà văn chống Nhật và mua chuộc các nhà văn có tài” và kiến nghị phải “tổ chức các nhà văn” và “tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ”. Vì sao Đề cương Văn hóa nhấn mạnh như vậy? Vì những người cầm bút góp phần gìn giữ và phát triển tiếng Việt. Một dân tộc sẽ vượt qua giông tố lịch sử, nếu tiếng nói và chữ viết của họ vẫn được bảo vệ và lưu truyền bền bỉ.
Đầu thế kỷ 20, chữ Nôm mai một dần và chữ quốc ngữ hình thành. Người Việt đã tiếp thu và sử dụng chữ quốc ngữ như một thứ ngôn ngữ dễ đọc, dễ viết. Thậm chí, người Việt còn nỗ lực Việt hóa nhiều chữ Pháp để làm phong phú thêm tiếng Việt. Thế nhưng, để tiếng Việt không mất đi sự trong sáng bởi sự xâm thực của ngoại ngữ và rơi vào hoàn cảnh tàn lụi vì màu mè rối rắm, Đề cương Văn hóa triển khai kế hoạch “Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết” bằng ba giải pháp, thứ nhất là “thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói”, thứ hai là “ấn định mẹo văn ta” và thứ ba là “cải cách chữ quốc ngữ”.
Nhờ mục tiêu rõ ràng như vậy, nên Đề cương Văn hóa trở thành nền tảng phát triển tiếng Việt suốt 80 năm qua. Ngay từ buổi sơ khai của cách mạng, các nhà văn như Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Xuân Diệu, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Hoài Chân, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Tô Hoài... đã tích cực tham gia vào cuộc chấn hưng tiếng Việt. Và lộ trình trong sáng tiếng Việt từng bước được nhiều thế hệ tác giả Việt Nam vun đắp, khiến tiếng Việt càng ngày càng giàu đẹp.
Sau 80 năm, Đề cương Văn hóa vẫn là cơ sở để định dạng và thăng hoa văn hóa Việt Nam. Những yêu cầu được đặt ra trong Đề cương Văn hóa 1943 vẫn chưa hề xưa cũ, mà còn có tính cấp thiết. Bởi lẽ, Đề cương Văn hóa 1943 chính là cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của nước ta. Từ giá trị thực tiễn của Đề cương Văn hóa 1943, chúng ta có thêm Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Trung ương 33 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Thông điệp “tranh đấu về tiếng nói, chữ viết” vẫn còn rất nóng bỏng, vì công nghệ thông tin và lối sống thực dụng đang làm méo mó tiếng Việt. Những kiểu nói tắt, nói sai nghĩa gốc, nói độn tiếng Anh... đang phổ biến trên nhiều phương tiện truyền thống đại chúng, cũng cần được soi chiếu bằng Đề cương Văn hóa, nhằm có sự chấn chỉnh kịp thời.