Nhân lễ hội Ná Nhèm (Lạng Sơn) mới diễn ra với hình ảnh rước dương vật đang gây nhiều ý kiến trái chiều, chúng tôi muốn bàn thêm về một số chiều kích khác liên quan đến chủ đề. Bài viết này không trình bày quan điểm về những khía cạnh trực tiếp của lễ hội trên, mà chỉ dừng lại ở việc xem xét trên một tinh thần chung, nhằm tìm kiếm những cơ sở và hạt nhân tích cực của một sản phẩm văn hóa vốn có từ xa xưa trong đời sống nhân loại.
Phồn thực là một tín ngưỡng cổ xưa mà đến nay nhiều cộng đồng trên thế giới còn duy trì, bảo vệ và thực hành, đó là việc thờ cúng, hành lễ, hội hè liên quan đến các bộ phận sinh dục và hoạt động tính giao của con người. Có những dân tộc còn nâng nó lên thành tôn giáo, làm cơ sở cho cả một nền văn minh như người Chăm và các cộng đồng Hindu nói chung.
Một trong những bản năng mãnh liệt nhất của thiên nhiên là sinh tồn. Cá nhân sẽ chết, nhưng nòi giống cần bất tử, thiên nhiên đã hành động một cách đầy minh triết và dữ dội để thực hiện sứ mệnh ấy: sinh sản. Con người từng ý thức được điều đó, họ tôn thờ dương vật và âm vật, tự hào tạc tượng hoạt động giao hoan trên vách của những ngôi đền.
Ngày nay ở Nhật Bản, một quốc gia văn minh bậc nhất châu Á, lễ hội rước dương vật vẫn được bảo tồn, không phải là trong một làng mạc xa xôi nào đó mà ngay trên đường phố giữa lòng đô thị. Họ không cần cách điệu, mà “người sao của chiêm bao làm vậy”! Ở Hàn Quốc có hẳn những công viên dựng đầy dương vật với màu sắc và kích cỡ lớn nhỏ khác nhau. Du khách tới, ngắm nhìn, sờ chạm, chụp ảnh một cách vui vẻ, tự nhiên và hào hứng.
Xa xưa, người phương Tây đã mang tinh thần giải phóng đó. Tranh tượng khỏa thân là thường, đến tượng thần còn trần trụi với bộ phận sinh dục không hề e thẹn. Các vị thần trên dãy Ôlimpia yêu đương, ngoại tình, ghen tuông, đủ cả.
Trong một ngàn năm của “Đêm trường Trung cổ” châu Âu, những tình cảm tự nhiên của con người bị lên án, những xung năng lành mạnh bị cầm tù. Nhà thờ Thiên Chúa giáo bị các thế lực chính trị thao túng và lợi dụng đã đẩy Âu châu vào một thời đại tối tăm. Các tòa án dị giáo mọc lên để xét xử và bức hại những khát vọng giải phóng con người. Rồi thời kỳ Phục hưng đến, tình yêu trở lại trong nghệ thuật, trong đời sống. Những tác phẩm văn học ca ngợi tình yêu được tái sinh, những bức tranh và pho tượng khỏa thân ra đời, hình thể con người được tôn vinh. Tinh thần nhân văn và nhân bản trở lại, ngực người đàn bà và cơ bắp người đàn ông trên những thân thể trần truồng đầy sức sống trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp hoàn mỹ của con người.
Người Tây phương mặc hở, một phần quan trọng là vì lý do ấy, tự tin và tự hào về cơ thể của mình. Cái cơ thể đó là “hình ảnh của Chúa”, là sự hun đúc của đấng Tạo hóa, mặc hở để khoe ra vẻ đẹp thần thánh, tôn vinh con người và tôn trọng bản tính tự nhiên đẹp đẽ đầy sức mạnh mà Thượng Đế đã ban cho. Nó rất khác với những gì mà chúng ta thấy trong nhiều nền văn hóa ở Á đông, coi cơ thể là một sự ô uế, thấp kém cần che đậy (thậm chí che mặt), và cần lên án.
Nhân bản là gì? Nôm na là lấy con người làm gốc, làm trung tâm. Vì sao có cái tư tưởng mà tưởng chừng như phải là dĩ nhiên này? Vì con người đã từng bị đối xử không như con người. Có lúc họ bị coi như con vật trong xã hội nô lệ, có khi họ chỉ còn là cái bóng của thần linh. Trong các thời kỳ lịch sử mà các thế lực chính trị bạo tàn cai trị, con người đã bị thao túng bằng những thứ gọi là tôn giáo, là thần thánh, là thanh cao..., người ta tiêm nhiễm vào đầu óc dân chúng một thứ ý niệm coi thường thân xác, ghê tởm cơ thể, khinh bỉ những nhu cầu bản năng lành mạnh.
Đó là một mưu toan, nó bào đi sức sống khỏe khoắn của con người, làm họ mất hết năng lượng, và quay sang tôn thờ một thứ đạo đức yếu đuối mà Nietzsche gọi là “đạo đức của nô lệ”, nó biến họ thành những kẻ sống mà không biết đến hạnh phúc trần thế, hoàn toàn bị thống trị bởi thế quyền và thần quyền.
Một dân chúng khỏe mạnh luôn là mối nguy với bất kỳ sự cai trị tàn bạo nào. Và vì thế, việc giam hãm xung lực của con người là một mánh lới. Khi nào con người giải phóng được nguồn năng lượng sống vĩ đại kia, thì bất kỳ một thế lực nào cũng có thể tan rã. Hãy nhìn những đứa trẻ ở tuổi dậy thì, chúng sẽ đạp đổ mọi xiềng xích. Tiếc thay, chúng không giữ được lâu trước sức mạnh bạo tàn của các thiết chế mang tính xiềng xích ghê gớm đang vây bủa. Chúng phải đầu hàng.
Trung tâm quyền lực, ý chí sống và nguồn năng lượng vĩ đại của con người là nằm dưới rốn. Những dân tộc nào còn giữ được sự trân trọng, sự tôn vinh đối với “của quý” của mình, thì dân tộc ấy tràn đầy sinh lực và sức mạnh kiến tạo. Ở đâu mà “đạo đức” trở thành một thế lực cầm tù tình dục, khiến dân chúng tự ghê tởm cơ thể của mình, thì ở đó chỉ có sự èo uột, thảm hại. Tất nhiên, con người không chống lại được thiên nhiên, sự cầm tù sẽ khiến bản năng nổi giận và tìm cách phá phách. Nhưng để tránh sự trừng phạt, nó phải trở nên giả dối, lưu manh. Nó bất hạnh vì phải tự đeo mặt nạ, gồng mình lên để tỏ ra thanh cao và đạo đức. Những cộng đồng như thế cũng như những sinh vật đã cạn kiệt nguồn sống, trở nên yếu đuối và thảm hại.
Thật vậy, những dân tộc còn giữ được sự nguyên sơ lành mạnh và vô tư đối với dục tính thì ngược lại, sẽ tự cân bằng và không phóng đãng. Hãy nhìn vào các thời kỳ lịch sử rối ren để thấy, khi sự khủng hoảng xã hội trỗi dậy thì cá nhân buông tuồng. Ca ngợi Truyện Kiều và “tòa thiên nhiên” của Thúy Kiều vì lẽ gì? Vì đó là một tác phẩm phục hưng lớn lao trong lịch sử tinh thần Việt Nam khi đã hết lời ca ngợi vẻ đẹp của con người và tình yêu tự do nơi họ. Ấy thế mà lại đi khinh bỉ thân thể, thật kỳ lạ!
Bhutan là một quốc gia Phật giáo, nhưng hãy nhìn họ, trên vách những ngôi nhà của mình, họ vẽ hình những dương vật đang hùng dũng vươn lên. Đó chính là sức khỏe của họ. Một dân chúng như thế ắt phải hạnh phúc.
Chúng ta cũng tìm kiếm hạnh phúc, nhưng ta ghê tởm và phủ nhận chính bản tính của mình, ta sẵn sàng quay lưng và tấn công vào cơ thể của mình. Ta thèm khát hạnh phúc trên mặt đất nhưng lại chỉ muốn làm thánh thần ở một cõi xa xăm nào đó, hít khí trời và chạm vào nhau bằng những linh hồn trong suốt. Thật bi hài.