‘Cánh cửa’ để sản phẩm gỗ đi vào các thị trường lớn
Theo ông Trần Duy Khánh, Trưởng phòng Marketing - phân tích thị trường của tổ chức KNA CERT, Hoa Kỳ là quốc gia tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới, mỗi năm quốc gia này nhập khẩu đồ gỗ có giá trị khoảng 24 - 25 tỷ USD. Đồ gỗ của Việt Nam được xem là nguồn cung lớn nhất đối với thị trường Hoa Kỳ, chiếm khoảng 37% tổng giá trị nhập khẩu đồ gỗ của nước này và chiếm khoảng 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam.
Cũng theo ông Khánh, trong năm 2024, ngành gỗ Việt có nhiều cơ hội để hồi phục, bởi hàng tồn kho tại Hoa Kỳ đã cạn dần trong năm 2023, tạo động lực để thị trường này tiếp tục nhập khẩu. Tuy nhiên, thị trường Hoa Kỳ phát sinh nhiều rào cản mới về tiêu chuẩn trong xuất khẩu, liên quan đến bảo vệ môi trường và giá trị bền vững.
“Vì vậy, các doanh nghiệp ngành gỗ của Việt Nam cần chủ động cập nhật các tiêu chuẩn, quy định mới của Hoa Kỳ về phát triển rừng bền vững, chuỗi cung ứng sạch và về nguồn gốc xuất xứ của mặt hàng đồ gỗ để tiếp cận với thị trường lớn nhất thế giới”, ông Trần Duy Khánh chia sẻ.
Đối với thị trường châu Âu (EU), cũng theo ông Khánh, hiện đồ gỗ của Việt Nam nhập vào thị trường này chỉ chiếm 1,9% trong tổng giá trị nhập khẩu mặt hàng gỗ của EU và chiếm 3,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguyên nhân sản phẩm gỗ của Việt Nam chưa tiếp cận sâu vào thị trường EU được cho là do khách hàng khu vực này rất khó tính trong việc sử dụng đồ gỗ. Cuối năm 2024, EC tiếp tục áp dụng quy định chống phá rừng (EUDR), đây là thách thức không nhỏ cho ngành gỗ Việt.
Ông Khánh khẳng định chứng chỉ FSC sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh trong thị trường EU đối với mặt hàng gỗ xuất khẩu của Việt Nam, là cơ hội để sản phẩm gỗ Việt tiếp cận với thị trường EU, thị trường đầy tiềm năng này. Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EU đã có hiệu lực năm thứ 3, đây là động lực thúc đẩy hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.
“Việt Nam là 1 trong 4 nước ở khu vực châu Á có hiệp định thương mại với EU nên có nhiều cơ hội về giảm thuế và các ưu đãi về xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này. Trước thực trạng EU đang gặp khó trong việc thay thế nguồn cung đồ gỗ từ Nga và Trung Quốc, đây cũng là cơ hội lớn để ngành gỗ Việt tiếp cận với thị trường này”, ông Trần Duy Khánh chia sẻ.
Lợi ích nhiều mặt
Theo bà Vũ Thị Quế Anh, đại diện Hội đồng quản trị rừng (FSC) tại Việt Nam, hiện ở Việt Nam có khoảng 310.000ha rừng đã được cấp chứng chỉ FSC; trong đó, có khoảng hơn 20.000ha là rừng tự nhiên không khai thác gỗ, còn lại là rừng trồng. Chứng chỉ FSC CoC ở Việt Nam tăng khá nhanh, hiện đã có 1.730 đơn vị được cấp. Việt Nam còn có nhiều dòng nguyên liệu khác đã được cấp chứng chỉ FSC như hơn 9.000ha tre và 6.000ha cao su, riêng gỗ cao su cũng là nguyên liệu để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu cung ứng cho thị trường thế giới.
“Đối với gỗ có chứng chỉ FSC, diện tích chỉ mới là 1 yếu tố, quan trọng hơn là sản phẩm phải đảm bảo tính bền vững. Tại Việt Nam, gỗ nguyên liệu có chứng chỉ FSC được tiêu thụ với giá cao hơn các loại gỗ không có chứng chỉ FSC từ 10 - 15%. Đối với những nhà mua hàng cao cấp trên thị trường toàn cầu, họ sẵn sàng trả thêm tiền cho những mặt hàng được làm từ nguyên liệu có chứng chỉ FSC. Đối tượng tiêu dùng này xác định được những giá trị, tác động xã hội mà sản phẩm được làm từ nguyên liệu có chứng chỉ FSC mang lại sự phát triển bền vững cho rừng”, bà Vũ Thị Quế Anh chia sẻ.
Ông Phạm Đình Sức, chuyên gia đánh giá trưởng của tổ chức KNA CERT, cũng cho rằng FSC là tiêu chuẩn để người tiêu dùng thế giới lựa chọn sản phẩm để tiêu thụ. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành chế biến gỗ xuất khẩu ở Việt Nam có chứng chỉ là do khách hàng yêu cầu. Thế nhưng nếu như doanh nghiệp chủ động làm chứng chỉ FSC trước thì sẽ được hưởng thụ nhiều lợi ích. Bởi FSC hoạt động trên 123 thị trường trên thế giới, FSC có trang chủ và khi tham gia, các doanh nghiệp có thể cập nhật mọi thông tin, tìm kiếm khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm từ trang này. Tham gia FSC, các doanh nghiệp nhỏ còn tìm kiếm được cơ hội làm ăn với các đối tác trên toàn cầu.
Cũng theo ông Sức, FSC có 2 loại chứng nhận chính là FSC FM và FSC CoC. FSC FM là chứng nhận cho khu rừng đạt các tiêu chí liên quan tới môi trường, xã hội và kinh tế, chứng nhận này dành cho các tổ chức trồng rừng và khai thác rừng; còn chứng chỉ FSC CoC là dành cho chuỗi sản xuất từ thu mua gỗ tròn, nhà máy cưa xẻ, chế biến đến đơn vị bán hàng.
Theo ông Tô Xuân Phúc, Giám đốc điều hành Chương trình chính sách, thương mại và tài chính lâm nghiệp - Tổ chức Forest Trends, 2 yêu cầu cốt lõi mà các doanh nghiệp cần lưu tâm để các sản phẩm gỗ được lưu thông tại thị trường EU là không gây mất rừng và hợp pháp. Hiện tại, nhiều khách hàng trong khu vực này đã và đang áp dụng nhiều tiêu chuẩn sản xuất và tiêu dùng bền vững tự nguyện đối với các sản phẩm gỗ, ví dụ các sản phẩm phải có chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC. Bên cạnh đó, theo Hiệp định Đối tác tự nguyện giữa Việt Nam và EU về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (Hiệp định VPA/FLEGT), Việt Nam cam kết tất cả các mặt hàng gỗ xuất khẩu sang EU là hợp pháp, nên doanh nghiệp phải thích nghi và làm theo.
Theo Báo cáo Bền vững Toàn cầu của Neilson, doanh số bán hàng tiêu dùng từ các thương hiệu có cam kết bền vững đã tăng hơn 4%, trong khi những thương hiệu không có cam kết chỉ tăng dưới 1%. 66% người tiêu dùng nói rằng họ sẵn sàng chi nhiều hơn cho các thương hiệu bền vững.