Xóm bờ sông An Khánh quê tôi (làng Thọ Lộc, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) có hai người phụ nữ mà người làng, vào độ tuổi ngoài lục thập như tôi, ai cũng biết.
Người lớn tuổi hơn là bà Một Út, gọi theo tên con như tục của làng, là bà Dựa, mẹ của anh Lê Văn Dựa, sau đổi là Lê Văn Chỉnh. Hai mẹ con đã thành người thiên cổ vài mươi năm rồi.
Người nhỏ tuổi hơn là bà Mai (gọi theo tên con), tên cúng cơm là Lê Thị Em. Bà Mai là mẹ của anh Nguyễn Văn Minh. Anh Minh, anh Dựa, và tôi học cùng lớp vỡ lòng (bây giờ gọi là mẫu giáo) ở chùa xóm Gò, sau lên học trường 5 lớp (trường tiểu học của làng) cũng ngồi chung nhau. Bà Mai mất cách đây chừng 10 năm. Nếu còn sống, bà Dựa ngoài trăm tuổi, bà Mai cũng qua cửu thập. Cả hai bà đều có cái miệng rất duyên, luôn sẵn nụ cười chúm chím trên đôi môi nhai trầu đỏ thắm. Bà Mai còn quấn lọn tóc trên đầu bằng một mảnh ruy băng rất điệu đà.
Cả hai bà đều xuất thân là những người nông dân rất nghèo. Tuổi nhỏ, đi làm con sen, con ở cho nhà người ta, một chữ bẻ đôi không biết. Ấy vậy mà bài vè “Cháy nhà bà Nhân” dài mấy trăm câu, bà Dựa vừa đọc vừa diễn từ đầu đến cuối không quên một từ. Bà Mai thì thuộc hàng ngàn câu thơ lục bát, nhiều câu trữ tình hay đến mê ly. Biết bao nhiêu là tên đất, tên người quê tôi hiện ra trong những câu thơ từ cửa miệng của hai bà: Rộc Cổ, bến Biền, Xích Hậu, chợ Hố, bến Đá, cửa Khâu…
Tài ứng tác của hai bà thì khỏi nói, bất cứ chuyện gì xảy ra ở làng, đều lập tức từ miệng hai bà bật ra mấy câu như sắp sẵn trong đầu. Dĩ nhiên, không phải câu nào cũng hay, chính xác hơn, hầu hết là những câu kể có vần, trong đó nhiều câu tếu táo, thậm chí mượn lời nói tục để giễu cợt, chọc cười. Thì vậy thôi, thơ ca ở chốn quê mùa, bãi mía nương dâu, chủ yếu để kể chuyện, giải khuây, may ra có ngài Khổng Tử bên Tàu mới san định thành Kinh Thi cho người đời sau học đạo.
Mà lạ, dù các bà mù chữ, thậm chí cũng không biết thế nào là “ca dao”, nhưng trong hàng ngàn câu lục bát ấy, vần vè, thanh điệu, niêm luật đâu vào đó, biến thể, phá thể đều y chang đúng cách. Rất nhiều khi tôi ngồi nghe các bà vừa nhai trầu bỏm bẻm vừa đọc ca dao mà thầm nghĩ: Gọi là tiếng mẹ đẻ là thế này đây. Chuỗi âm thanh nằm trong hơi thở, lặn vào những mạch máu li ti trong huyết quản. Cái tiếng từ vành nôi, từ lời ru của bà mẹ nghèo đưa giấc mơ của đứa con thơ đến với cánh đồng thơm hương lúa.
Có nhiều ý kiến về nguồn gốc câu thơ lục bát, trong đó có thuyết nhắc đến một thể thơ của dân tộc Chăm. Tôi không có điều kiện tìm hiểu sâu về chuyện ấy. Chỉ biết rằng, thơ lục bát có cả một kho tàng chất ngất trong ca dao - dân ca người Việt, có đỉnh chữ ngút trời trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, có những nỗi niềm lắng sâu thăm thẳm trong thơ Huy Cận, Đinh Hùng, Nguyễn Đình Thư, Phạm Thiên Thư, Cung Trầm Tưởng…
Về phần tôi, bà ngoại, mẹ tôi cùng với hai người phụ nữ mà tôi kể ở trên và biết bao nhiêu bà mẹ, biết bao bậc cha anh mà tôi đã gặp trên những nẻo đường điền dã, thực sự là những người thầy, người thân mà tôi mang nợ suốt đời. Không có họ, cuốn sách "Ca dao Quảng Ngãi" (NXB Thông tin Truyền thông, 2014) của tôi mãi mãi cũng chỉ là một ao ước chẳng thể thành hình.
Làng Thọ Lộc, tháng 12/2022.