Vở kịch “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long vừa được đạo diễn Bùi Như Lai dàn dựng lại để công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội, đánh dấu 100 năm ra đời kịch nói Việt Nam. Vở kịch “Chén thuốc độc” được gọi là “hí kịch lối mới chia làm 3 hồi” do nhà văn Vũ Đình Long (1896 - 1969) sáng tác, ra mắt lần đầu năm 1921, thực sự tạo ra một bước ngoặc cho sự phát triển của sân khấu Việt Nam.
Và suốt theo chiều dài lịch sử, giới nhà văn đã dự phần vào sự thịnh vượng của kịch nói. Thế nhưng, khi kịch nói đứng trước khủng hoảng kịch bản, thì công chúng bỗng ngỡ ngàng nhận ra sự im lặng của các nhà văn. Các cuộc hội thảo nhân 100 năm kịch nói Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội và TP.HCM đều có chung nỗi day dứt: Vì sao bây giờ các nhà văn không còn mặn mà với sân khấu?
Văn học có ba thể loại trọng yếu: văn xuôi, thơ và kịch. Thậm chí, có ý kiến còn cho rằng “kịch là thể loại khó nhất trong văn học”. Thực tế đã chứng minh, những tác phẩm tiêu biểu của sân khấu Việt Nam đều từ kịch bản do các nhà văn cung cấp. Sau phát súng hiệu của nhà văn Vũ Đình Long, một tên tuổi khác là nhà văn Vi Huyền Đắc (1899 - 1976) đã làm dậy sóng sàn diễn với những vở kịch như “Uyên ương” viết năm 1927, “Hai tối tân hôn” viết năm 1929, “Ông Ký Cóp” viết năm 1937, “Lệ Chi Viên” viết năm 1943…
Đã có một giai đoạn, không có nhà văn xuất sắc nào không nhúng bút vào thể loại kịch. Thậm chí, không ít nhà văn hoặc nhà thơ từng giữ vai trò chủ chốt trong hoạt động sân khấu như Thế Lữ (1937 - 1989) Hoàng Cầm (1922 - 2010) hoặc Lưu Trọng Lư (1911 - 1991).
Không thể nói khác hơn, chính các nhà văn đã tạo ra phần xương cốt cho mỗi tác phẩm kịch nói. Nếu nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) không viết kịch thì sân khấu không thể có các tác phẩm lừng lẫy như “Vũ Như Tô”, “Những người ở lại” hoặc “Lũy hoa”. Nếu nhà văn Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003) không viết kịch thì sân khấu cũng không thể có những tác phẩm kinh điển như “Rừng trúc”, “Con nai đen” hoặc “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”.
Ở giai đoạn đổi mới, kịch nói cuốn hút công chúng xếp hàng đến rạp cũng nhờ nhà thơ Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) chuyển sang viết kịch. Cũng thời điểm ấy, còn có những gương mặt nhà văn viết kịch xuất sắc như Xuân Trình (1936 - 1991), Nguyễn Khắc Phục (1947 - 2016) Nguyễn Anh Biên (1937 - 2019) Xuân Đức (1947 - 2020).
Còn ở miền Nam thì sao? Rất nhiều nhà văn cũng xem việc viết kịch là một phần của sự nghiệp cá nhân. Trước năm 1975, nhà văn Lý Văn Sâm (1922 - 2000) có các vở kịch “Người đi không về”, “Trong một ngày vui”, “Nửa mảnh trăng thề”. Sau năm 1975, nhà văn Ngọc Linh (1935 - 2002) có các vở kịch “Đêm khuya về với mẹ”, “Ngôi nhà của chúng ta” hoặc “Vết thương ngày cũ”.
Vài năm gần đây, chỉ còn lác đác vài nhà văn lặng lẽ viết kịch như Nguyễn Hiếu, Nguyễn Thu Phương, Nguyễn Quang Vinh… Vì sao như vậy? Các nhà văn quay lưng với kịch nói vì thù lao ít ỏi chăng? Hay chính giới sân khấu không còn muốn dan díu với giới văn chương?
Khi đắc cử Chủ tịch Hội Sân khấu Việt Nam, Nghệ sĩ Nhân dân Trịnh Thúy Mùi đề ra hai mục tiêu phải phấn đấu là “phối hợp thường xuyên với Hội Nhà văn Việt Nam để nâng cao chất lượng văn học sân khấu” và “thường xuyên tổ chức các hội thảo, tọa đàm về kịch bản văn học”. Đáng tiếc, ý tưởng ấy suốt 2 năm qua vẫn còn nằm khiêm nhu trên giấy.
Đã đến lúc các nhà văn phải quay lại với kịch nói. Bởi lẽ, kịch nói là thể loại xung kích nhất trong đời sống văn hóa. Tiên trách kỷ hậu trách nhân, các nhà văn phải tự nguyện nhận lấy trách nhiệm đóng góp cho kịch nói. Bởi lẽ, văn học là đòn bẩy cho những hoạt động sáng tạo khác và vai trò của nhà văn luôn được đồng nghiệp ở các lĩnh vực khác tin cậy.
Trước đây, Hội Nhà văn Việt Nam và Viện Văn học đều có ban chuyên môn về kịch. Tuy nhiên, hiện tại dường như cảm thấy công việc ấy nên giao hết cho Hội Sân khấu Việt Nam hoặc Viện Sân Khấu nên không ai đoái hoài. Hãy nhớ rằng, dù chỉ bất chợt ghé qua, nhưng nhà văn Nguyễn Khải (1930 - 2008) và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (1950 - 2021) vẫn khiến những người yêu kịch rất hào hứng đón nhận.