Tối 17/3, với tinh thần “nói và hành động”, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức cuộc họp nhằm sớm hoàn thành Đề án phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã có những chỉ đạo quan trọng nhằm ứng phó với những thách thức ngày càng nghiêm trọng mà thiên tai gây ra cho vùng đất trù phú này.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, các cơ quan chuyên môn cần tiếp cận và xây dựng Đề án trên quan điểm “kinh tế và kỹ thuật” thay vì những đề xuất thuần chuyên môn, để từ đó giải quyết các vấn đề kinh tế, an ninh, và môi trường thông qua các công cụ kỹ thuật, kết hợp với các giải pháp đa mục tiêu.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chủ trì cuộc họp hoàn thiện Đề án phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Khương Trung.
Những diễn biến đáng lo ngại
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ ra rằng, trước đây, ĐBSCL chủ yếu đối mặt với các hình thái thiên tai như lũ lụt, với những giải pháp chủ yếu là xây dựng các tuyến dân cư, bờ bao và tôn nền để phòng chống. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, hình thái thiên tai đã có sự thay đổi rõ rệt. Các hiện tượng như sụt lún, hạn hán và xâm nhập mặn đang gia tăng, gây ra những tác động sâu rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân và sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Theo Bộ trưởng, những vấn đề này không chỉ gây gián đoạn sản xuất, đặc biệt trong nông nghiệp và thủy sản, mà còn đe dọa an ninh quốc gia, an ninh nguồn nước và sự an toàn của người dân. Các giải pháp cũ không còn phù hợp với tình hình mới, và ĐBSCL đang phải đối mặt với một tương lai đầy bất định nếu không có những giải pháp phòng chống thiên tai phù hợp và kịp thời.
Theo báo cáo, nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của các hiện tượng thiên tai trong khu vực ĐBSCL là sự biến đổi khí hậu toàn cầu, sự phát triển nội tại của đồng bằng, và tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên không bền vững, đặc biệt là việc khai thác nước ngầm quá mức, nước từ thượng nguồn cũng giảm. Sự sụt lún đất, tình trạng thiếu nước và xâm nhập mặn đang dần trở thành những thách thức chính đe dọa đến môi trường và sự sống của người dân nơi đây.
“Những tác động của thiên tai không chỉ dừng lại ở việc giảm sút sản lượng nông sản, thủy sản mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là rừng ngập mặn, nguồn sống quan trọng của nhiều loài thủy sản. Đây là những vấn đề đòi hỏi sự can thiệp ngay lập tức và đồng bộ để bảo vệ không chỉ con người mà cả môi trường sinh thái trong khu vực”, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh.
Kết hợp giữa phòng ngừa và thích ứng
Người đứng đầu ngành nông nghiệp và môi trường chỉ ra rằng, giải pháp phòng chống thiên tai không thể chỉ dừng lại ở những biện pháp đơn lẻ mà cần có một chiến lược tổng thể và dài hạn, kết hợp giữa phòng ngừa và thích ứng. Bộ trưởng cũng thống nhất với ý kiến của Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp rằng, đề án phải được đặt trong các quy hoạch vùng, các chương trình, dự án phát triển đã có của vùng ĐBSCL cũng như các dự án, kế hoạch của Nghị quyết 120 đã được ban hành trước đây.

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp phát biểu tại cuộc họp. Ảnh: Khương Trung.
Một trong những chỉ đạo mạnh mẽ của Bộ trưởng Đỗ Đức Duy là cần xây dựng các giải pháp công trình và phi công trình, bao gồm cả việc nâng cao nhận thức cộng đồng và ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác phòng chống thiên tai.
“Chúng ta cần các giải pháp không chỉ để phòng ngừa mà còn phải thích ứng với những tác động không thể tránh khỏi của biến đổi khí hậu. Chúng ta sẽ tập trung vào những giải pháp mang tính liên vùng bởi thiên tai không có biên giới và tác động đến tất cả các khu vực trong vùng", Bộ trưởng nhấn mạnh.
Với những điều kiện đó, đề án kinh tế - kỹ thuật sẽ được xây dựng để giải quyết các vấn đề kinh tế, an ninh và môi trường thông qua các công cụ kỹ thuật hiện đại, kết hợp với các giải pháp đa mục tiêu. Đặc biệt, Bộ trưởng yêu cầu đề án cần tập trung đầu tư vào hệ thống cơ sở dữ liệu về ngập úng, xâm nhập mặn và cảnh báo thiên tai, đồng thời nâng cấp hệ thống quan trắc để kịp thời phát hiện và ứng phó với những diễn biến bất thường của thiên tai.
Một yếu tố quan trọng khác mà Bộ trưởng chỉ ra là việc huy động nguồn lực từ cả ngân sách nhà nước, các tổ chức ngoài nhà nước và cộng đồng. Các công trình phòng chống thiên tai đòi hỏi nguồn kinh phí lớn, do đó, phân bổ hợp lý nguồn lực sẽ quyết định hiệu quả của các giải pháp.
Ngoài ra, Bộ trưởng cũng yêu cầu các cơ quan chức năng đánh giá tác động của các giải pháp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trong khu vực, từ đó có những điều chỉnh phù hợp để bảo vệ một cách tối đa cuộc sống và tài sản của người dân.
Xác định đề án là một chiến lược không chỉ mang tính cấp bách mà còn là yếu tố then chốt giúp ĐBSCL phát triển bền vững, giữ vững an ninh và phát triển kinh tế lâu dài trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ đạo các đơn vị chuyên môn sớm hoàn thiện, báo cáo lãnh đạo Bộ, để từ đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình các cấp lãnh đạo Đảng, Chính phủ phê duyệt đề án.

Toàn cảnh cuộc họp tối 17/3. Ảnh: Khương Trung.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khẳng định, việc triển khai đồng bộ các giải pháp tổng thể, kết hợp phòng ngừa và thích ứng, là chìa khóa để xây dựng một ĐBSCL an toàn, bền vững.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại buổi làm việc ngày 12/3/2025, Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai (PCTT) đã rà soát, tổng hợp các nội dung để cập nhật, hoàn thiện Đề án phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn tại vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2035, tầm nhìn đến 2050.
Theo đó, Cục Quản lý đê điều và PCTT đã phối hợp với cơ quan liên quan của Bộ Xây dựng tổng hợp số liệu di dời dân cư theo Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vượt lũ vùng ĐBSCL; đề xuất xây dựng các công trình có tính tổng thể, kết hợp đa mục tiêu; xác định các công trình trọng điểm theo thứ tự ưu tiên; Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật có liên quan để tạo điều kiện xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực ngoài ngân sách; Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đảm bảo chuyển đổi nhanh, bền vững….