Tôi với NSƯT Bạch Vân quen nhau đã 30 năm nay. Hồi chị là nhân viên Sở VH-TT&DL Hà Nội hay sang tờ báo nơi tôi làm việc để đăng tin hoạt động phong trào quần chúng. Bạch Vân có năng khiếu viết báo từ lâu nên hay cộng tác. Nhưng có điều bao giờ tôi cũng được chị kéo ra hành lang hát tặng một câu ca trù mới học thuộc. Giọng chị lạ lắm ngân vang bay bổng và đẹp như nắng sớm trải tấm lụa vàng trên bãi cỏ non.
Sau ngày giải phóng Thủ đô, các tụ điểm hát cô đầu bị cấm (1954). Ca trù dần rơi vào quên lãng. Nói đến hát cô đầu người ta đều nhìn mặt trái của nó trong hoạt động phía sau của những cô đào rượu. Thời gian trôi đi vài chục năm ròng. Những dẫy nhà hát cô đầu cũng bị xóa sạch bong. Nhất là sau khi Khâm Thiên bị giặc Mỹ bom B52 (12-1972) làm tan nát không còn dấu vết gì của thập niên 50 hay 60. Nghiệp hát cô đầu coi như bị chôn vùi sâu ba tấc đất.
Ấy vậy mà, Bạch Vân đã mạnh dạn đề nghị Sở VH cho thành lập Câu lạc bộ Ca trù (1990). Bạch Vân có bàn thuyết trình sự bảo tồn nghệ thuật ca trù truyền thống của dân tộc rất hay. Tôi là người được đọc những dòng chữ nóng hổi và ẩn chứa say mê bất thường đó của Bạch Vân. Lúc ấy tôi mới hay Bạch Vân đã từng là một ca sĩ (thuộc Đoàn ca múa Nghệ An) được đào tạo bài bản ở Trường VHNT Nghệ An và Khoa thanh nhạc (Trường Âm nhạc Việt Nam nay là Nhạc viện Hà Nội).
Giọng hát của Bạch Vân có màu sắc an tô riêng biệt và hiếm hoi vào thập kỷ 80. Chị tốt nghiệp Đại học Văn hóa, chuyên ban Âm nhạc năm 1981. Ngay sau đó Bạch Vân được các trường nghệ thuật miền Nam xin. Nhưng rồi chỉ một lần nghe nghệ nhân Quách Thị Hồ hát trên đài phát thanh thế là Bạch Vân đổi hướng.
Trong ký ức thơ ấu, Bạch Vân luôn nhớ rằng mẹ mình chính là người hát dân ca lẩy Kiều, ngâm thơ cổ, ví dặm rất hay. Đất quê Thanh Chương của chị cũng là nơi sản sinh những bài ca trù cổ. Từ đó Bạch Vân càng đam mê dòng âm nhạc này. Chị bắt đầu học hành bài bản từ đầu. Một công trình nghiên cứu về ca trù được Bạch Vân ấp ủ từ năm 1982.
Đến năm 1986, Bạch Vân về Sở VH làm việc cũng chỉ với mục đích hoạt động phong trào và tiếp tục học hát ca trù trong dân gian. Một mình thầm lặng và trăn trở với hồn phách tơ vương: "Hồng Hồng, Tuyết Tuyết/ Mới ngày nào còn chưa biết cái chi chi/ Mười lăm năm thấm thoát có xa gì/ Ngoảnh mặt lại đã tới thì tơ liễu..."
Đúng là "Mười lăm năm thấm thoát có xa gì", Bạch Vân nguyện ước trở thành ca nương và ngày đêm luyện tập. Câu chuyện ngỡ như đã lỡ nhịp khi chị bắt đầu sự nghiệp ở gần tuổi 30. Nhưng sẵn có giọng hát hay và đào tạo cơ bản, Bạch Vân dấn thân mày mò tầm sư học đạo. Ngẫm lại quãng đường gian truân khởi nghiệp cho đên nay chị không khỏi xúc động.
Chị giật mình vì thời gian qua mau. Không còn lưu giữ được chút xao xuyến riêng tư trong đời người con gái. Bạch Vân bắt đầu hành trình hết sức gian nan. Đúng là những lần đi gặp các nghệ nhân của Hà thành xưa chị đều bị từ chối. Thậm chí họ còn sợ sệt vì muốn tránh cái tiếng cô đầu xấu xa ám ảnh một thời.
Đó là những ngày Bạch Vân phải đi xe đạp xuống cơ sở và gặp gỡ những ca nương để học từng câu hát. Có người thương Bạch Vân thì dậy cho vài ba câu. Thậm chí cả năm trời Bạch Vân mới học được một bài. Cứ học truyền miệng thế chẳng có văn bản hay khuông nhạc để tự mày mò.
Bạch Vân đi khắp chốn tìm thầy. Nào lận đận Lỗ Khê, Quốc Oai. Khi lại tất tả Từ Liêm, Thạch Thất. Rồi mải miết đạp xe lên Bắc Ninh, ra Hải Phòng và quay về Hải Dương; Sau này chị còn đi xe máy vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Cứ ở đâu có nghệ nhân hay giáo phường ca trù là chị đến. Bạch Vân nằn nì học từng câu ca nhỏ lẻ, những luyến láy rung hơi của mỗi nghệ nhân để tìm hiểu, so sánh.
Đặc biệt Bạch Vân đã theo nghệ nhân Quách Thị Hồ trong bốn năm trời để mong được học một chút kỹ thuật cũng được. Giọng hát cùa Bạch Vân đã ám thị âm hưởng thanh thoát và đổ hột làm mê hoặc lòng người. Hơn nữa chị còn được cụ Chu Văn Du, người chơi đàn đáy nổi tiếng ở Hưng Yên, phó quản ca giáo phường Khâm Thiên dậy trong ba năm về các thể cách cơ bản.
Tiếp theo đó Bạch Vân đã cần mẫn theo bà Phó Thị Kim Đức ngay từ năm 1986, thuyết phục bà trở lại nghề để theo học. Khi lên sân khấu biểu diễn lần đầu tiên, Bạch Vân đã trải qua một chặng đường gian truân kéo dài cả chục năm trời.
Mãi cho đến năm 1991, CLB Ca trù Hà Nội của chị mới được ra đời. Nơi hát ra mắt đầu tiên của CLB ở Quốc Tử Giám sau đó về hát cố định tại Bích Câu đạo quán. Ngay lập tức giọng hát Bạch Vân nổi lên như một hiện tượng. Đó là một ca nương đích danh. Những bài hát của các nho sĩ và nhà thơ nổi tiếng như: Dương Khuê, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến...đều được thể sắc thái mới qua giọng hát Bạch Vân.
Cứ vậy nghệ sĩ Bạch Vân một mình lầm lụi tiến từng bước trong sự nghiệp gìn giữ văn hóa giáo phường ca trù ở Hà Nội. Đây là một tiền đề cho phong trào thành lập các CLB ca trù ở nhiều nơi. Giọng hát của Bạch Vân được phát huy tối ưu trong nghệ thuật hát ca trù. Mỗi lời ca như vận vào đời mình. Quên ngày quên tháng sống trong mộng ước và tâm trạng thấm đẫm nỗi đau nhân sinh.
Chị hát bằng cả trường đời lận đận cô đơn. Liên tiếp những năm này Bạch Vân đoạt những giải cao trong các cuộc thi: HCB hát dân ca (1988); Giải nhất giọng hát hay ca trù (1992); HCB thi Đơn ca chuyên nghiệp TQ, năm 1992; Đặc biệt là Giải Nghệ sĩ Tài năng Xuất sắc, năm 1995. Ngoài ra Bạch Vân đã tham gia hát cho phim: "Chợt nghe tiếng hát ca trù"; Đồng tác giả và cố vấn cho phim "Thể phách ca trù", đoạt HCB trong Liên hoan Phim truyền hình TQ (2004).
Đáng chú ý nhất khi nghệ sĩ Bạch Vân làm cố vấn và tham gia chính trong phim "Lạt mềm buộc chặt”, giải nhất Phim ngắn (2005). Bạch Vân được nhận danh hiệu Nghệ nhân ca trù và NSƯT (2012).
Nay ca nương Bạch Vân vẫn một mình một bóng ở tuổi "Lục thập hoa giáp". Trong ngôi nhà nhỏ bé ngày nào, chị đang chuẩn bị công trình nghiên cứu để bảo về luận án tiến sĩ. Cuốn sách đã xuất bản trước đó "Đào nương và nghệ thuật hát ca trù" (NXB HN-2019) của Bạch Vân là thành quả bảo vệ thành công luận án thạc sĩ (2004).
Đây là một tác phẩm nghiên cứu sâu sắc về đào nương và nghệ thuật ca trù duy nhất hiện nay. Cuốn sách như tổng kết cuộc đời đeo đuổi nghiệp dựng ca trù ở Thủ đô. Nội dung cuốn sách được trình bày khoa học theo từng chương mục cho những người muốn theo đuổi nghề hát ca trù.
Nó còn gói ghém cả sự diễn giải tinh tế về khuôn mẫu âm nhạc trong kỹ thuật trình bày lời ca. Bởi ai cũng biết ca trù là một bộ môn nghệ thuật bác học trong ngôn ngữ âm nhạc và lời ca. Chính vì thế tác phẩm của NSƯT Bạch Vân đã được Hội Nhạc sỹ VN trao giải B thể loại sách nghiên cứu (không có giải A) năm 2020.
Giọng hát của Bạch Vân vượt thời gian. Hiện nay chị thường xuyên tham gia đào tạo ca nương và dậy hát ca trù. Sau khi rời địa điểm về hát tại đình Kim Ngân (42 Hàng Bạc), CLB Ca trù Hà Nội tạo nên một địa chỉ văn hóa sâu rộng.
Tôi chợt nhớ có đêm Bạch Vân hát đến tận 2 giờ sáng để phục vụ khách. Giọng hát của Bạch Vân có sức thu hút lạ thường. Những âm sắc gợi cho du khách những niềm ẩn ức mà bấy lâu nay giữ kín. Đó là sự giải tỏa trong những bài thơ "Tỳ bà hành", "Hỏi gió", "Thét nhạc" hay "Chơi xuân kẻo hết xuân đi"…
Nửa đêm về sáng Bạch Vân lầm lũi về nhà trong sự mệt mỏi rã rời. Chị thiếp đi trong cơn mơ, tay vẫn gõ phách rồi hát về nỗi trống vắng cô liêu. Đó là câu ca mà Nguyễn Công Trứ đã gieo vào tâm hồn Bạch Vân bấy lâu nay: "Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Giữa trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét thì trèo với thông".