Tôi không đủ tài để tự nghĩ ra được cái tên giản dị mà nhiều chất thơ như vậy. Chỉ có những người ngày đêm gắn với cánh đồng, gắn với cây lúa, gắn với số phận của từng mảnh ruộng, ngày ngày một nắng hai sương kiếm sống và lo cho con cháu, mới giàu có và lãng mạn, mới nhân hậu và công bằng đến độ có thể làm được điều đó.
“Cánh đồng ông Báo" giờ đây đã thành một thuật ngữ, một danh hiệu, một thương hiệu và một sự vinh danh, ít nhất với vùng đất Thái Bình mà lần nào có dịp ghé qua, tôi cũng muốn thốt ra một vài câu văn xuôi có vần. Ở các vùng quê khác tôi không biết, còn trên bất cứ cánh đồng lúa mênh mông nào của Thái Bình, cũng có thể nhận ra dấu ấn của người anh hùng.
Nửa thế kỉ đối thoại với cánh đồng, ông chứng kiến tất cả nỗi cơ hàn của người nông dân và muốn giúp họ thoát cảnh làm quần quật vẫn không đủ ăn. Nửa thế kỉ gắn bó với cây lúa, giờ đây nó nhiễm vào ông những thói quen rất kì lạ.
Thứ nhất là dù giàu có, dù đi gần khắp thế giới, đến hàng trăm nơi sang trọng, ông vẫn vô cùng giản dị, chả khác mấy với một nông dân.
Thứ hai, hễ cứ thấy lúa là ông xà xuống vuốt ve, thăm hỏi, thóc mách đủ thứ về “đời tư” của từng thân phận lúa. Ông có thể ngồi cả ngày ngoài cánh đồng, nói chuyện với các loại cây trồng không biết chán và không biết mệt.
Và cái thói quen sau cùng này mới thực sự làm ông khổ: Cứ mỗi khi thấy đất nông nghiệp, gọi chung là đất cấy trồng ở đâu bị biến mất vì trăm ngàn lý do, là ruột gan ông lại như bị cào xé, như mất đi một thứ gì đó không lấy lại được. Mỗi lần như thế ông thành khó tính, khó chiều, dễ cáu bẳn, nhiều lúc chỉ muốn gào to lên cho hả.
Bởi vì, như ông nói, phải mất hàng ngàn năm mới có được những mảnh đất để cấy trồng, trong khi mảnh đất ấy một khi đã bị chuyển đổi, đã bị bê tông, cát sỏi trộn vào, là trở thành đất chết, vĩnh viễn không bao giờ còn hồi sinh được nữa.
Tại văn phòng mới xây khang trang, trà rất ngon, thời tiết đẹp, không khí đầy ngập sự thân tình, nhưng ông vẫn không bình thản được, mà vẫn xót xa nói lại với chúng tôi sự thật rất ít người quan tâm đó. Ông bảo, dù đến bất cứ quốc gia nào, ông cũng tò mò tìm hiểu xem họ đối xử, ứng xử với đất cấy trồng, tức là đối xử với tương lai của họ ra sao. Thì ở đâu cũng thấy họ có những quy định cực kì nghiêm ngặt để bảo vệ loại đất được mặc định là thứ tài nguyên đặc biệt đó.
Ví dụ ở Pháp, việc chuyển đổi một mảnh ruộng bé tẹo sang đất công nghiệp, cũng phải do Tổng thống quyết định. Hoặc như ở Nhật, từ hơn 10 năm trước, họ đã khẩn khoản muốn ông khi về nước nói lại một cách không mệt mỏi với mọi người Việt, về cái giá đau thương mà nước Nhật phải trả, khi chuyển đổi bừa bãi đất nông nghiệp thành đất công nghiệp. Là công dân một đất nước nổi tiếng tử tế, người Nhật không muốn Việt Nam lặp lại cái bi kịch ấy. Họ khuyên những nước như Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải bảo vệ bằng được hai thứ: Đất nông nghiệp và rừng, nhất là rừng phòng hộ.
"Bây giờ chưa thấy đâu", ông Báo nói với chúng tôi bằng sự mệt mỏi hiện ra trên từng nếp nhăn và khi đó tôi thấy ông rất khắc khổ. "Vì tí lợi ích trước mắt, biết bao cánh đồng trù mật thành sân gôn, thành khu chế xuất, thành nhà xưởng... Được cái gì thì chưa thể tính ra. Nhưng mất thì rành rành rồi. Bây giờ chưa phải trả giá đâu. Nhưng sớm thôi, chỉ đời con cháu nay mai thôi, sẽ rất khốn khổ khốn nạn và khi đó chúng nó sẽ nguyền rủa lũ cha anh thiếu tầm nhìn, ích kỷ, vụ lợi". Chúng tôi chỉ còn biết ngồi im, vì hình như mình cũng ít nhiều là tòng phạm, vì thiếu hiểu biết.
Lúc đứng giữa những mảnh ruộng trồng đủ loại giống lúa tại Viện nghiên cứu của Tập đoàn, hà hít thứ hương thơm của lúa đang chín, tôi chỉ muốn nằm xuống bờ ruộng đã được bê tông hóa theo yêu cầu của công việc, ngủ một giấc.
Thành thật là lâu lắm rồi tôi mới lại được gần lúa đến thế. Sát bên. Quấn vào nhau. Có thể cầm nắm, vỗ về, hôn hít. Cả tuổi mới lớn ngủ bên lúa, là bạn của lúa, cho đến cuối đời tôi mới nhận ra cây lúa đẹp lạ lùng. Ít có loại cây thân thảo nào lại vừa có khí tiết cứng cỏi, thanh tao lẫn sự dịu dàng, yểu điệu, mê hoặc như cây lúa. Tiếng rì rào của lúa là thứ âm thanh chỉ dành riêng cho những người may mắn trong tình yêu.
Còn tôi, sau nửa thế kỉ gặp lại, biết bao nhiêu kí ức tuổi thơ trong tôi trỗi dậy. Nó khiến tâm hồn tôi bỗng rộng mở, bao dung, hồn hậu, vị tha một cách bất ngờ. Buồn bã, chán chường, thất vọng… đều rủ nhau tiêu biến hết. Chả thấy còn muốn giận ai nữa. Thù ghét thành ra là thứ tình cảm lạc lõng, thậm vô lý. Cái gốc của sự lành, của cái thiện, của tình yêu con người, tình yêu quê hương và lớn lao hơn là tình yêu đất nước… bắt rễ từ đây và chỉ từ đây. Tôi tin chắc thế và cứ nhất định tin thế, mặc dù có thể sai.
Giờ nghe ông Báo nói những tâm sự từ gan ruột, chợt thấy mình có phần vô tình, vô cảm. Tôi hiểu rằng mỗi người cần phải làm một việc gì đó, để cứu những cánh đồng, để cứu tương lai, khi còn chưa muộn.
Tôi không cần phải nói gì thêm về ông Trần Mạnh Báo, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn ThaiBinhSeed, với những đóng góp quan trọng của ông cho nền nông nghiệp nước nhà. Đã có hẳn một cuốn Tự truyện tên là “Đối thoại với cánh đồng”, do ông viết, dày ngót 500 trang khổ lớn và nếu muốn, bạn có thể qua cuốn sách để biết chi tiết về cuộc đời ông.
Tôi tin rằng sau khi đọc cuốn sách, bạn cũng sẽ như tôi, muốn bằng mọi cách gặp tác giả, chỉ để hỏi ông một câu: Bí quyết nào đã khiến ông bền bỉ sống, bền bỉ sáng tạo, bền bỉ làm việc, bền bỉ yêu cuộc đời đến thế, trong liền mạch hơn nửa thế kỉ?
Tôi cũng không cần phải nói thêm về tình cảm của người nông dân cả nước, đặc biệt là Thái Bình và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ dành cho ông, bởi có thể tôi còn biết về điều đó ít hơn nhiều người khác.
Nhưng tôi nhất định phải nói với bạn sự thật thú vị này: Ông Trần Mạnh Báo không chỉ là một nhà khoa học, một doanh nhân, một nhà quản lý thành đạt, có ảnh hưởng xã hội, mà ông thực sự còn là một thi sĩ đồng quê, một nhạc sĩ từ trong tâm hồn và hơn hết, ông là một lão nông tri điền, tri nông, có thể là từ kiếp trước.