Nhìn vào bức tranh phát triển những thập kỷ qua của ngành thủy sản, chúng ta có thể nhận ra những cơ may để thay đổi, để tăng trưởng vào quỹ đạo phát triển xanh, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, có cả chủ quan lẫn khách quan mà chưa thực hiện được như mong muốn.
Trong đó, có lẽ cũng có chút do duy ý chí, có nguyên nhân đến từ bối cảnh và thời cuộc. Muốn cải thiện tình hình này, chắc chắn chúng ta phải thay đổi cách nghĩ trên cơ sở Nhà quản lý phải lấy sinh thái và nguồn lợi làm gốc để tư duy công việc; lấy ngư dân là chủ thể và rất cần một chiến lược quốc gia để thủy sản có thể đảm bảo mục tiêu vừa tăng trưởng, vừa nâng cao đời sống người dân, vừa tuân thủ các đòi hỏi về giữ gìn môi trường, hệ sinh thái biển và các vùng nước.

TS Tạ Quang Ngọc, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản. Ảnh: Tùng Đinh.
Nghề cá và những giá trị văn hóa, cách ứng xử của dân tộc
Giống như nhiều nước khác, ở Việt Nam, thủy sản là một ngành truyền thống để lại một giá trị văn hóa to lớn cho dân tộc, hình thành và hun đúc nên một thứ văn hóa nghề cá, điều mà nghề cá công nghiệp hiện nay không thể có được.
Thông qua văn hóa nghề cá, con người có thể tìm hiểu cả về lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của dân tộc mình. Hơn thế, nghề cá đã nuôi sống người dân Việt Nam suốt hàng nghìn năm, cũng nhờ đó cha ông chúng ta biết cách ứng phó với thiên tai, địch họa, cách thích nghi và hòa nhập với thế giới… Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong quá trình hội nhập hôm nay cũng có phần bắt nguồn từ đó. Nét đẹp văn hóa “điền tư, ngư chung” rất gần với triết lý cơ bản của luật ứng xử Nghề cá trách nhiệm - đầu vào cho các hoạt động chuyển đổi xanh hiện tại.
Khi xem xét sự thay đổi những thập kỷ qua của nghề cá nước ta, năm 1980 là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn dài tăng trưởng của ngành. Từ đó đến nay, theo các số liệu thống kê biên niên nhiều năm, sản lượng thủy sản và giá trị xuất khẩu do thủy sản mang lại tăng liên tục.
Có được kết quả này có phần do môi trường chính sách dành cho ngư dân và nghề biển trở nên thông thoáng hơn trong đổi mới. Mở rộng xuất khẩu được khuyến khích. Vào những năm 1980, cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” trong xuất khẩu thủy sản có tác động tích cực, có đà để đến năm 1995, kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta đạt 550 triệu USD - một con số đáng kể vào thời điểm đó.

Theo TS Tạ Quang Ngọc, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản: Nét đẹp văn hóa “điền tư, ngư chung” rất gần với triết lý cơ bản của luật ứng xử Nghề cá trách nhiệm - đầu vào cho các hoạt động chuyển đổi xanh hiện tại. Ảnh: Tùng Đinh.
Đặc biệt, nhờ những thành tựu về sinh sản nhân tạo, thức ăn tổng hợp và mở mang hợp lý nuôi thâm canh vào giữa thập niên 1980, nghề nuôi thủy sản hàng hóa nhanh chóng hình thành. Khoảng 10 năm sau, ngành nuôi đã phát triển mạnh, tạo ra hai sản phẩm xuất khẩu chủ lực: tôm và cá da trơn. Đến năm 2000, hai ngành hàng này đã chiếm ưu thế vượt trội. Chính hoạt động xuất khẩu và thị trường tiêu dùng trong nước về thủy sản đã trở thành động lực quan trọng, khuyến khích doanh nghiệp và người dân hăng hái mở rộng sản xuất nuôi trồng, san sẻ, bù đắp và đi đến phần sản lượng vượt trội so với hải sản khai thác như hiện tại.
Từ năm 1990, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng có lợi cho chúng ta phát triển sản xuất và mở ra những cơ hội giao thương quốc tế. Quan hệ ngoại giao Việt Nam - EU được thiết lập cuối tháng 11/1990. Tháng 7/1995, hai bên ký “Hiệp định khung Hợp tác, thiết lập các nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai phía”.
Từ đây, thủy sản Việt Nam bắt đầu mở rộng hợp tác quốc tế một cách bài bản, bắt kịp và tận dụng tốt những thời cơ mới, để rồi chủ động hội nhập trong thời gian tiếp theo. Chúng ta đã xuất khẩu thành công vào nhiều thị trường, kể cả những thị trường có đòi hỏi khắt khe nhất. Thời gian đó, có thể ta chưa nghĩ tới con số 10 tỷ USD xuất khẩu thủy sản mỗi năm như hiện nay. Nhưng cách đi lúc đó đã cho mọi người lòng tin vào những thành công của thủy sản Việt Nam trên mọi thị trường thủy sản thế giới.

Chiến lược tăng trưởng xanh xây dựng cho ngành thủy sản nước ta là một phần hữu cơ của Chiến lược tăng trưởng xanh tổng thể đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Ảnh: Hồng Thắm.
Cũng từ tháng 7/1995, Việt Nam là thành viên của ASEAN. Thủy sản Việt Nam là thành viên của Trung tâm phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) và nhiều tổ chức hợp tác khác của khu vực Đông Nam Á. Trước thềm thế kỷ XXI, xuất khẩu thủy sản Việt Nam ra thế giới đã vượt con số trên 1 tỷ USD, gấp đôi con số này của 5 năm trước đó (1995). Điều quan trọng hơn: Đằng sau những con số này tiềm tàng những chuyển biến tích cực, hứa hẹn sự tăng trưởng bền vững cho nhiều năm tiếp theo sau này.
Đầu năm 1993, nhận thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của thủy sản nước nhà sau mấy năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, Hội nghị Trung ương V khóa VII đã ban hành Nghị quyết, trong đó xác định chủ trương xây dựng thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Cùng năm đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 03- NQ/TW và nêu rõ: Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển.
Hai nghị quyết này giống như cứu cánh, đóng vai trò quan trọng, tạo động lực lớn cho sự phát triển của ngành thủy sản. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mình thực sự may mắn kế thừa nhiều thành quả và hướng đi đúng đắn từ các thế hệ đàn anh đi trước, được sự khích lệ của Đảng và Nhà nước, sự đồng tình của ngư dân để cùng nhau xây dựng và thực thi các đề án, các chương trình hành động nhằm làm cho thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển.
Riêng trong lĩnh vực khai thác biển, tôi muốn nói thêm một chút: Liên tục trong nhiều năm, hạ tầng kỹ thuật nghề cá không ngừng xây mới và nâng cấp, tàu đánh cá nhiều lên, to hơn và trang bị động cơ mạnh hơn, công nghệ và công cụ khai thác được cải tiến… Điều đó mang theo những tác động tích cực.
Cùng với sản lượng khai thác tăng lên, cơ cấu sản lượng có những thay đổi đáng mừng giữa xa và gần/ven bờ, nhất là trong mấy năm 1999-2004. Tuy nhiên, tiếp tục như vậy mà bộc lộ những khiếm khuyết trong quản lý hoặc yếu kém trong kiểm soát, mặt trái của vấn đề cũng dần bộc lộ và ngày một trở nên đáng lo ngại.
Điều lo ngại nhất là sự suy giảm liên tục trong nhiều năm về chỉ số sản lượng và giá trị sản lượng trên mỗi đơn vị cường lực khai thác xảy ra phổ biến trong nhiều nghề. Số tàu lớn nhiều lên mà mà số tàu nhỏ ven bờ không giảm, thậm chí vẫn tăng làm gay gắt thêm tình trạng nguồn lợi ven bờ! Rõ ràng, bền vững đang có vấn đề. Trước tình hình đó, đã nhiều năm nay, một kịch bản nghề cá biển được đưa ra với chủ trương không tăng thêm sản lượng khai thác. Thật chật vật trong nhiều năm khi thực hiện chủ trương này.
Vì vậy, bên cạnh những bước đi tiên phong, ngành thủy sản đang có những bất cập, những thách thức lớn để theo kịp xu thế phát triển chung theo hướng bền vững.
Phát triển bền vững và tăng trưởng xanh nghề cá biển
Năm 1980 là dấu mốc, bắt đầu sự tăng trưởng liên tục của thủy sản Việt Nam. Cũng năm 1980 ấy, khái niệm Phát triển bền vững lần đầu tiên được nêu ra trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn thế giới” của IUCN.
Từ năm 1995, khi thủy sản Việt Nam tham gia thực hiện Luật ứng xử về Nghề cá trách nhiệm (CCRF) giữa các nước thành viên của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), yêu cầu phát triển bền vững được khẳng định đối với nghề cá toàn cầu. Khái niệm này đã có trong các chiến lược và quy hoạch phát triển của thủy sản nước ta.
Hội nghị Reykjavik tổ chức ở Iceland cuối tháng 9/2001 với tiêu đề “Nghề cá trách nhiệm trong hệ sinh thái biển” - Responsible Fisheries in the Marine Ecosystem là sự kiện quan trọng mở đầu cho nghề cá thế giới bước vào thế kỷ XXI. Nó nhằm tạo cơ sở khoa học đưa Bộ quy tắc ứng xử Nghề cá trách nhiệm vào vận hành đầy đủ và hiệu quả trong hệ thống nghề cá thế giới. Tăng trưởng xanh (Blue Growth) là tiếp cận và hành động cụ thể để chủ động thực thi sự bền vững cho nghề cá.

TS Tạ Quang Ngọc, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản cho rằng: "Mục tiêu chúng ta cần đạt được là quản lý phối hợp dẫn đến tăng trưởng toàn diện góp phần vào ba trụ cột của phát triển bền vững (xã hội, kinh tế, môi trường) và xóa đói giảm nghèo, nạn đói, suy dinh dưỡng". Ảnh: Tùng Đinh.
Hội nhập với nghề cá thế giới, nghề cá Việt Nam cùng với yêu cầu phát triển riêng của mình không là ngoại lệ khi thực hiện các cam kết quốc tế về Tăng trưởng xanh theo hướng đó. Thực tế, hơn 2 thập kỷ qua, tôi thấy đó là một thử thách không nhỏ mà vấn đề về khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) vừa qua là một minh chứng. Dù thử thách, đó vẫn phải là cơ sở cho một nghề cá Việt Nam “khỏe mạnh” cũng như thực hiện các cam kết quốc tế về phát triển bền vững mà Việt Nam tham gia.
Mở rộng ra, mục tiêu chúng ta cần đạt được là quản lý phối hợp dẫn đến tăng trưởng toàn diện góp phần vào ba trụ cột của phát triển bền vững (xã hội, kinh tế, môi trường) và xóa đói giảm nghèo, nạn đói và suy dinh dưỡng.
Khái niệm tăng trưởng xanh ở Việt Nam xuất hiện khá sớm trong nhiều ngành và lĩnh vực. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.
Đối với thủy sản, vai trò tăng trưởng xanh được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó nêu rõ quan điểm: “Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái biển”
Ở đây tôi muốn nhấn mạnh một điểm: Chiến lược tăng trưởng xanh xây dựng cho ngành thủy sản nước ta là một phần hữu cơ của Chiến lược tăng trưởng xanh tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, do tính đặc thù mà thủy sản cần có tiếp cận của mình, có hành động phù hợp và có những kết quả thực hiện như mong muốn. Ở đây, Blue Growth nằm trong nhưng có sự khác biệt với Green Growth cho tất cả mọi ngành.
Cần một chiến lược xanh cho tất cả
Nhiều năm qua, Bộ NN-PTNT, ở một chừng mực nhất định đã là cơ quan quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Tuy nhiên, việc chuyển đổi xanh vẫn chưa mang tính liên ngành. Vì vậy, cần xây dựng một chiến lược xanh tổng thể cho tmọi hoạt động nông nghiệp. Điều này sẽ giúp giảm bớt sự chồng chéo, nâng cao hiệu quả quản lý và tạo ra một mục tiêu rõ ràng, bao quát, thống nhất, hướng tới phát triển bền vững trên quy mô toàn ngành.

Cần xây dựng một chiến lược xanh tổng thể cho toàn ngành nông nghiệp. Ảnh: Hồng Thắm.
Một mặt, chiến lược xanh tổng thể của ngành nông nghiệp cần tập trung vào mục tiêu giảm phát thải carbon theo lộ trình cam kết. Mặt khác, phải thấy rằng Nông nghiệp/thực phẩm là một lĩnh vực tiêu thụ năng lượng rất lớn, cần sớm thực hiện kiểm toán năng lượng một cách toàn diện để tiêu thụ năng lượng thấp nhất và giảm thiểu carbon phát thải.
Nếu về an toàn thực phẩm, chúng ta đã có truy xuất nguồn gốc, có các chương trình bảo đảm vệ sinh từ “đồng ruộng đến bàn ăn”, thì năng lượng gắn liền với chuỗi cung ứng như vậy cũng phải được kiểm đếm, và trên cơ sở đó có chính sách cũng như các giải pháp tiết kiệm, hợp lý sử dụng năng lượng. Việc làm này giúp hạn chế phát thải carbon thật sự hữu hiệu.