| Hotline: 0983.970.780

Thứ Năm 28/09/2023 , 08:55 (GMT+7)
GS Nguyễn Lân Dũng

GS Nguyễn Lân Dũng

08:55 - 28/09/2023

Chuyển đổi số trong nông nghiệp tương lai

Nông nghiệp đã, đang trải qua cuộc cách mạng số hóa ấn tượng, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sản xuất, quản lý tài nguyên, tạo ra ngành nông nghiệp bền vững hơn.

Chuyển đổi số trong lĩnh vực này không chỉ là một xu hướng mà còn là sự cần thiết để đối phó với thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, tăng trưởng dân số và thay đổi khẩu vị của người tiêu dùng.

Cảm biến và IoT: Các thiết bị cảm biến được trồng trên cây trồng hoặc gắn trên vật nuôi để theo dõi điều kiện môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, độ pH, và chất dinh dưỡng. Thông tin này được truyền về hệ thống Vạn vật kết nối Internet (IoT) để theo dõi và điều chỉnh các quy trình sản xuất.

Trí tuệ nhân tạo (AI) và máy học (machine learning): AI được sử dụng để phân tích dữ liệu từ cảm biến và dự đoán các yếu tố như thời tiết, nhu cầu vận chuyển và thời điểm thu hoạch tối ưu.

Tưới tiết kiệm nước: Hệ thống tưới tự động dựa trên dữ liệu cảm biến giúp tiết kiệm nước và giảm nguy cơ lãng phí tài nguyên quý báu này.

Quản lý chuồng trại thông minh: Trong ngành chăn nuôi, các trang trại thông minh sử dụng cảm biến để theo dõi sức kháng, dinh dưỡng và sự phát triển của động vật, giúp cải thiện chất lượng thịt, sữa, đồng thời giảm lượng thức ăn và thuốc thú y cần sử dụng.

Thương mại điện tử nông sản:

Nền tảng trực tuyến: Các nông dân có thể tiếp cận thị trường quốc tế thông qua các nền tảng thương mại điện tử, giúp họ bán nông sản trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp mà không cần thông qua các bên trung gian.

Giám sát và quản lý hàng tồn kho:

Hệ thống quản lý kho: Sử dụng phần mềm quản lý kho hiện đại, nông dân và người quản lý nông trại có thể theo dõi hàng tồn kho và lên kế hoạch sản xuất dựa trên dữ liệu thực tế.

Chăm sóc sức kháng và sức khỏe của cây trồng và động vật:

Phân tích dữ liệu genôm: Nghiên cứu genôm giúp phát triển giống cây trồng, giống động vật chống bệnh tốt hơn, giúp tăng cường sức kháng và sức khỏe tổng thể.

Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ tạo ra sự tăng cường hiệu suất, mà còn giúp bảo vệ môi trường, giảm lãng phí tài nguyên và cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân. Tuy nhiên, để thực hiện thành công chuyển đổi này, cần đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật số, đào tạo nông dân về công nghệ và đảm bảo tích hợp dữ liệu, bảo mật thông tin cho các hệ thống số hóa này.

Ứng dụng di động cho nông dân:

Ứng dụng di động như M-Farm (mua rau sạch): Sẽ cho phép nông dân tại Việt Nam theo dõi giá cả, thời tiết và tìm kiếm thông tin về kỹ thuật canh tác. Họ cũng có thể tương tác trực tiếp với người mua hàng.

Hệ thống tưới tự động dựa trên IoT:

Trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, sẽ có hệ thống tưới tự động sử dụng cảm biến độ ẩm đất và dữ liệu thời tiết để kiểm soát việc tưới nước, giúp tiết kiệm nước và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Kỹ thuật số hóa nguồn gốc sản phẩm:

Một số dự án sử dụng công nghệ chuỗi số (blockchain) sẽ có để theo dõi nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam. Điều này giúp cải thiện tính minh bạch, an toàn thực phẩm và giá trị của sản phẩm đối với người tiêu dùng.

Mạng lưới cung ứng nông sản thông minh:

Các tổ chức khởi động (startup) ở Việt Nam sẽ phát triển các nền tảng trực tuyến kết nối nông dân với thị trường và các doanh nghiệp trong ngành thực phẩm. Ví dụ như Tiki Fresh cho phép người tiêu dùng mua trực tiếp từ nông dân và thương nhân nông sản.

Chăm sóc sức khỏe động vật thông qua hệ thống IoT:

Trong lĩnh vực chăn nuôi, các trang trại ở Việt Nam sẽ sử dụng thiết bị theo dõi sức khỏe của động vật thông qua hệ thống IoT. Điều này giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe và giảm thiểu tỷ lệ bệnh dịch.

Hệ thống quản lý vùng sản xuất:

Ứng dụng GIS (Hệ thống Thông tin Địa lý) sẽ được sử dụng để quản lý vùng sản xuất nông nghiệp. Điều này giúp quản lý tài nguyên đất đai, lập kế hoạch canh tác hiệu quả hơn và giảm xâm lấn vào các khu vực cần bảo vệ môi trường.

Những ví dụ này cho thấy Việt Nam sẽ áp dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp để cải thiện hiệu suất sản xuất và chất lượng cuộc sống của người nông dân. Việc này không chỉ giúp tăng cường năng suất, mà còn góp phần quản lý tài nguyên một cách bền vững và thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp đất nước.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm