Trong khoảng vài năm trở lại đây, bệnh bạch hầu xuất hiện nhiều tại những tỉnh ở miền Trung, Tây Nguyên. Năm 2020 xuất hiện các ổ dịch tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Đắk Lắk, Đắk Nông… và đã có trường hợp tử vong.
Mới đây nhất, vào tháng 10/2021, trên địa bàn xã Hữu Lập, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An phát hiện 3 người dương tính với vi khuẩn bạch hầu. CDC Nghệ An đã thành lập đoàn công tác phối hợp với chính quyền huyện Kỳ Sơn khẩn trương triển khai phòng, chống dịch bạch hầu.
Đoàn công tác đã kiểm tra thực tế, thực hiện điều tra dịch tễ, rà soát trẻ tại 2 điểm trường bản Chà Lắn, bản Xốp Thạng (xã Hữu Lập), tiến hành cách ly, lấy 24 mẫu người lành mang trùng, gửi Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương làm xét nghiệm vi khuẩn bạch hầu. Tổ chức rà soát, triển khai tiêm vaccine DPT nhắc lại cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, đồng thời cho 300 trẻ uống kháng sinh dự phòng bệnh bạch hầu.
Nguyên nhân, triệu chứng bệnh
Bệnh bạch hầu (diphtheria) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu - tên khoa học là Corynebacterium diphtheria gây ra.
Vi khuẩn từ các mảng trắng có thể tiết ra nội độc tố, dễ gây suy hô hấp và tuần hoàn, liệt khẩu làm thay đổi giọng nói, sặc và khó nuốt khi ăn uống, lú lẫn; nặng thì hôn mê, sau đó tử vong. Một số trường hợp biến chứng viêm cơ tim hay viêm dây thần kinh ngoại biên. Ở những người không được tiêm phòng, hoặc không được điều trị kịp thời, 10% trường hợp người bệnh sẽ tử vong mặc dù đã dùng kháng sinh và sử dụng thuốc chống huyết thanh.
Nguyên nhân gây bệnh: Tác nhân gây bệnh bạch hầu là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae. Vi khuẩn bạch hầu có 3 týp là Gravis, Mitis và Intermedius. Vi khuẩn bạch hầu tiết ra các độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.
Bệnh khởi phát cấp tính và các đặc điểm chính là đau họng, sốt và sưng hạch ở cổ. Độc tố bạch hầu làm cho màng mô chết đi và tích tụ trên cổ họng và amidan, khiến việc thở và nuốt trở nên khó khăn. Bệnh lây lan qua tiếp xúc trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp khi tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.
Vì vi khuẩn bạch hầu lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp nên tốc độ lây lan rất nhanh, có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân đã có thể lây nhiễm cho người khác.
Về triệu chứng bệnh: Có khá nhiều triệu chứng xuất hiện trong 2 - 5 ngày sau khi phơi nhiễm. Ban đầu, người nhiễm bệnh sẽ bị đau họng, ho và sốt kèm ớn lạnh. Các triệu chứng này tăng dần từ nhẹ đến nặng. Chính vì triệu chứng khá phổ biến nên cha mẹ dễ nhầm tưởng trẻ bị cảm lạnh, chứ không phải đang phơi nhiễm với vi khuẩn bạch hầu.
Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, bệnh bạch hầu sẽ có các biểu hiện khác nhau: Bệnh bạch hầu mũi trước; Bệnh bạch hầu họng và amidan; Bệnh bạch hầu thanh quản; Bệnh bạch hầu các vị trí khác như gây loét ở da, niêm mạc (niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai).
Khi bệnh trở nặng, bên trong cổ họng và amidan người bệnh xuất hiện các lớp màng dày màu trắng xám, mọc thành từng mảng lớn, khiến bệnh nhân bị tắc nghẽn đường hô hấp và ho khan. Nếu bệnh nhân không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến viêm cơ tim, tổn thương hệ thần kinh, tử vong do đột ngột trụy tim mạch. Một số bệnh nhân bị viêm cơ tim và van tim, gây ra bệnh tim mãn tính và suy tim.
Ngoài ra, bệnh cũng có thể dẫn đến thoái hóa thận, hoại tử ống thận, chảy máu lớp tủy và vỏ thượng thận. Trường hợp bệnh nặng không có biểu hiện sốt cao nhưng có dấu hiệu sưng to cổ, khàn tiếng, khó thở, rối loạn nhịp tim, dẫn đến tê liệt hoàn toàn. Bệnh có thể diễn tiến trầm trọng khiến người bệnh tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Phòng ngừa bệnh bạch hầu thế nào?
Để phòng ngừa bệnh bạch hầu, người dân cần chú ý:
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày.
- Hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bệch hầu.
- Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
- Người có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.
- Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vaccine phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
Bạch hầu là bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng bệnh bằng cách tiêm chủng. Bệnh bạch hầu không có tính miễn dịch trọn đời, vì thế, nếu đã mắc bệnh, nguy cơ bị tái nhiễm các lần sau vẫn rất cao. Chủ động tạo miễn dịch bằng việc tiêm vaccine là biện pháp phòng bệnh an toàn, hiệu quả và kinh tế nhất.
- Tiêm chủng phòng bạch hầu cho trẻ nhỏ: Lịch tiêm chủng lần đầu bao gồm 4 mũi tiêm, 3 mũi đầu cách nhau 30 ngày, tiêm cho trẻ từ 2 tháng tuổi đến 5 tuổi, mũi thứ tư cách mũi thứ ba khoảng 1 năm. Tiêm nhắc lại sau 7 năm và tiếp theo cứ 10 năm tiêm nhắc lại 1 lần.
Nếu vì một lý do nào đó tiêm chủng phòng bạch hầu mũi đầu tiên trong độ tuổi từ 4-6 tuổi thì tiến hành tiêm 2 mũi cách nhau 30 ngày và mũi nhắc lại sau 9-12 tháng sau mũi 2. Còn nếu trẻ được tiêm mũi đầu tiên khi đã trên 6 tuổi thì trong trường hợp này tiến hành tiêm 2 mũi cách nhau 30 ngày và nhắc lại sau 6-9 tháng sau mũi 2. Chú ý: Tiêm chủng phòng ngừa bạch hầu cho trẻ đúng lịch.
- Tiêm chủng phòng bạch hầu cho người lớn: Tiêm chủng phòng bạch hầu cho người lớn thực hiện tiêm 1 mũi vaccine tổng hợp theo chu kỳ 10 năm, bắt đầu từ mũi tiêm chủng cuối cùng trong độ tuổi 14-16 (tiếp theo khi 24-26 tuổi, 34-36 tuổi...). Nếu không nhớ lần cuối cùng tiêm chủng phòng bạch hầu khi nào thì cần phải tiêm 2 mũi cách nhau 30 ngày và tiêm nhắc lại sau 6-9 tháng sau mũi 2.