| Hotline: 0983.970.780

Không để người dân 'khát' nước sạch

Thứ Năm 28/11/2019 , 08:51 (GMT+7)

Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, những năm qua, công tác nước sạch nông thôn tỉnh Hòa Bình đã triển khai mạnh mẽ và đạt được kết quả cao.

Hiện tại, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 93,2%.

08-24-02_nh_1
Người dân được thụ hưởng nguồn nước sạch.

Theo Trung tâm Nước sạch và VSMTNT tỉnh Hòa Bình, toàn tỉnh có trên 303 công trình cấp nước tập trung được xây dựng từ nhiều nguồn vốn. Trong đó, có 21 công trình hoạt động bền vững (chiếm 6,9%); 64 công trình hoạt động trung bình (chiếm 21,1%); 90 công trình hoạt động kém hiệu quả (chiếm 29,7%) và 128 công trình không hoạt động (chiếm 42,2%).

Ông Đặng Trung Thành, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và VSMTNT tỉnh Hòa Bình cho biết, đơn vị đang quản lý, vận hành 5 công trình cấp nước tập trung quy mô xã, liên xã, có công suất thiết kế từ 300 - 800m3/ngày - đêm.

Hầu hết các công trình đều vận hành ổn định và ngày càng phát huy hiệu quả, cung cấp nước hợp vệ sinh cho hơn 7.000 hộ dân. Hiện, các công trình đều sử dụng người địa phương để quản lý, vận hành khai thác.

Vì vậy, việc vận động người dân sử dụng nước và chi trả tiền sử dụng nước được thuận lợi. Việc sửa chữa hư hỏng nhỏ của công trình được kịp thời, đảm bảo cấp nước 24/24h.

Nhờ sự quan tâm của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, đến nay nhiều xã nghèo của huyện Mai Châu được hưởng thụ các công trình nước sạch hợp vệ sinh, phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho bà con nhân dân.

Trưởng phòng NN-PTNT huyện Mai Châu, ông Hà Công Soan chia sẻ, toàn huyện có trên 45 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Trong đó, 43 công trình do địa phương trực tiếp quản lý, cấp nước cho hơn 4.000 hộ dân; 2 công trình do Trung tâm Nước sạch và VSMTNT Hòa Bình vận hành, khai thác, cấp nước cho trên 2.500 hộ dân.

Đến nay, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt trên 90%. “Việc các hộ dân đăng ký sử dụng nước sạch góp phần đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành Chương trình MTQG về xây dựng NTM tại các địa phương”, ông Soan thổ lộ.

Giờ đây, nước sạch không còn xa lạ với người dân xã Chiềng Châu (huyện Mai Châu). Nước sạch về làng đã mang đến sự thay đổi lớn của bản làng nơi đây. Đây là niềm vui chung của người dân trong xã sau nhiều năm mong mỏi, chờ đợi.

Chị Hà Thị Trầm (xã Chiềng Châu) bảo, trước đây chưa có công trình nước sạch, gia đình phải sử dụng nguồn nước giếng khoan để nấu cơm, tắm giặt. Mặc dù có bể chứa nước mưa, nhưng nguồn nước mưa hiếm hoi, không đủ dùng.

Từ khi công trình nước sạch Chiềng Châu hoàn thành và đưa vào vận hành, sử dụng, nước sinh hoạt đã dẫn đến tận nhà. Gia đình cũng sắm sửa các thiết bị vệ sinh để dùng.

“Có nước sạch, đời sống của các thành viên được nâng cao, sức khỏe đảm bảo. Nhiều thiết bị dùng cho sinh hoạt trong nhà an toàn, không hỏng hóc, hoen gỉ. Trung bình, mỗi tháng, nhà tôi sử dụng từ 20 - 25m3 nước”, chị Trầm bật mí.

Niềm vui của chị Trầm cũng như niềm vui của gia đình anh Khà Tuấn Thành (xóm Là Xò). Khi có chủ trương tiến hành lắp đặt đường ống và cung cấp nước sạch, các thành viên trong gia đình anh đều rất vui mừng, ủng hộ lắp đặt 100%.

08-24-02_nh_2
Công nhân kiểm tra hệ thống điều khiển trước khi vận hành.
Hòa Bình phấn đấu, đến năm 2020, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95%. Tỷ lệ, hộ dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 75%. Tỷ lệ trường học và trạm y tế có nhà tiêu hợp vệ sinh và công trình nước sạch đạt 100%.

Sau 1 thời gian thi công, công trình nước sạch đi vào hoạt động, mạng lưới nước sạch đã phủ kín các thôn, xóm. Gia đình anh không còn phải lo lắng một số loại bệnh ngoài da do sử dụng nguồn nước ô nhiễm nữa.

Anh Thành vui mừng nói: “Hiện trong bể của gia đình lúc nào cũng chứa đầy nước sạch, trong và mát lạnh. Chỉ cần vặn vòi là nước chảy ra, thích lắm. Ai cũng thấy yên tâm, việc ăn ở, sinh hoạt, thuận lợi hơn rất nhiều”.

Ông Hà Văn Hợi, Tổ trưởng Tổ vận hành công trình cấp nước sinh hoạt xã Chiềng Châu cho hay, nguồn nước được lấy từ mó nước tự nhiện, sau đó bơm lên bể nước dự trữ. Qua hệ thống xử lý rồi cung cấp nước cho người dân xã Chiềng Châu và điểm du lịch Bản Lác.

Với công suất 36m3/h, mỗi tháng, công trình sản xuất hơn 10.000m3 nước hợp vệ sinh phục vụ bà con. Đến thời điểm này, toàn xã có hơn 900 hộ dân (gần 100%) sử dụng nguồn nước từ công trình.

Xem thêm
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng

Sáng 18/4 (tức 10/3 năm Giáp Thìn - ngày Giỗ Tổ Hùng Vương), Thủ tướng Phạm Minh Chính dự lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Điện Kính Thiên trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thuộc Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Đền Hùng ở TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Giá cam sành giảm mạnh, nông dân thất thu

ĐBSCL Hiện tại, cam sành loại 1 chỉ còn 5.000 đồng/kg, giảm 4.000đồng/kg so với dịp Tết Nguyên đán. Với giá bán hiện tại người trồng cam thua lỗ từ 2.000 - 3.000 đồng/kg.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Hai giám đốc sở chỉ đạo cứu lúa trên cánh đồng Mường Lò

Giám đốc hai Sở: NN-PTNT và Công thương tỉnh Yên Bái trực tiếp chỉ đạo chống hạn cho diện tích lúa tại cánh đồng Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ).

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm