| Hotline: 0983.970.780

Nhu cầu tiêu thụ chè và cà phê tại Trung Quốc ngày càng tăng cao

Thứ Bảy 12/10/2019 , 20:55 (GMT+7)

Diễn đàn 'Hợp tác phát triển sản xuất và tiêu thụ chè, cà phê Việt Nam - Trung Quốc' sẽ diễn ra ngày 14/10 tới đây, Bộ NN-PTNT Việt Nam là đơn vị tổ chức.

Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chè đứng thứ 4 của Việt Nam. Ảnh: Hải Đăng.

Diễn đàn là sự kiện nhằm tạo kênh kết nối giao thương, hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ chè, cà phê giữa hai nước nhân dịp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp nông thôn Trung Quốc Hàn Trường Phú thăm chính thức Việt Nam.

Trung Quốc là một trong những thị trường lớn và truyền thống nhập khẩu nông sản Việt Nam. Với dân số hơn 1,42 tỷ dân, chiếm 18,7% tổng dân số toàn thế giới,và có hàng trăm triệu khách du lịch, nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm nông thủy sản của thị trường Trung Quốc phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là rất lớn và đa dạng, phong phú.

Đối với nhóm hàng nông thủy sản, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, bình quân chiếm 27% tổng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản của cả nước và chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang thị trường này.

Tiềm năng và nhu cầu nhập khẩu các loại nông sản của Trung Quốc còn rất lớn. Xu hướng thay đổi thị hiếu tiêu dùng và tốc độ đô thị hóa nhanh khiến tiêu thụ chè và cà phê tại Trung Quốc ngày càng tăng cao.

Tuy nhiên,Trung Quốc mới chỉ là thị trường nhập khẩu xếp thứ 12 về cà phê với kim ngạch đạt trên 109 triệu USD và đứng thứ 4 về chè của Việt Nam đạt kim ngạch gần 20 triệu USD (đứng thứ 1 về cao su, rau quả và sắn các loại; đứng thứ 3 về gỗ và các sản phẩm gỗ; đứng thứ 5 về thủy sản);...

Do đó, Diễn đàn được Bộ NN-PTNT tổ chức được kỳ vọng sẽ giúp các cơ quan nhà nước, địa phương, doanh nghiệp hai nước trao đổi hợp tác phát triển sản xuất, chế biến và thương mại chè và cà phê Việt Nam - Trung Quốc. Bên cạnh đó là trao đổi, học tập kinh nghiệm từ đó giúp hai nước có các định hướng trong sản xuất, chế biến nhằm phát triển thương mại đáp ứng yêu cầu, thị hiếu của thị trường.

Đây cũng là dịp để các doanh nghiệp trong lĩnh vực chè và cà phê hai nước trao đổi, tìm hiểu, tăng cường liên kết trong sản xuất, cung cấp nguyên liệu phục vụ chế biến và liên kết trong phát triển thị trường tiêu thụ, đảm bảo lợi ích chung của nhân dân hai nước.

Cà phê Việt Nam đã xuất khẩu trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Trung Quốc à thị trường nhập khẩu cà phê xếp thứ 12 của Việt Nam. Ảnh: Hải Đăng.

Việt Nam là quốc gia có lợi thế và tiềm năng lớn trong sản xuất nông nghiệp nhiệt đới, thuận lợi để sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đa dạng, đặc trưng theo từng vùng, miền.

Sản phẩm nông lâm, thủy sản của Việt Nam hiện đang được xuất khẩu sang trên 180 thị trường trên thế giới, phủ khắp trên hầu hết các nước trên toàn cầu. Nhiều nông sản của Việt Nam giữ vị trí tốp đầu trên thế giới như lúa gạo, cà phê, chè, điều, hồ tiêu, thủy sản, đồ gỗ…

Bộ NN-PTNT Việt Nam đang chỉ đạo các đơn vị, địa phương tập trung xây dựng ngành chè, cà phê Việt Nam, thực hiện Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, có tính cạnh tranh cao với các sản phẩm đa dạng, có chất lượng, an toàn, thu hút đầu tư, liên doanh liên kết nhằm phát triển lĩnh vực chế biến, mang lại giá trị gia tăng cao, nâng cao thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp.

Trong đó, đối với ngành chè, diện tích chè cả nước năm 2018 khoảng 125.000 ha, năng suất đạt gần 90tạ/ha và sản lượng đạt trên 1 triệu tấn búp tươi. Đến nay Việt Nam có thể sản xuất đủ các loại chè phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng đa dạng của khách hàng trên thế giới.

Chế biến chè đang được nâng cấp và cải thiện cả về quy mô và công nghệ, cả nước có khoảng 257 doanh nghiệp chế biến chè quy mô công nghiệp, tổng công suất theo thiết kế là 5.204 tấn búp tươi/ngày, sử dụng 220.764 lao động sản xuất ra 193.618 tấn sản phẩm; hơn 500 cơ sở sản xuất, chế biến, công suất đạt trên 500.000 tấn chè khô/năm. Trong đó, chè đen chiếm 60%, chè xanh chiếm 40% gồm chè sao lăn, xanh duỗi, và các loại chè đặc biệt như Ô long, Phổ Nhĩ, các loại chè hương, chè thảo dược….

Việt Nam là nước đứng thứ 7 về sản xuất chè toàn cầu và đang xuất khẩu chè sang 61 Quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè. Trong năm 2018, lượng chè xuất khẩu của cả nước đạt 128.000 tấn, trị giá đạt 219 triệu USD.

Đối với ngành cà phê, tổng diện tích cà phê cả nước đến hết năm 2018 đạt 688.000ha, tăng trên 157.000ha so với 10 năm trước (năm 2008) tăng 30%, sản lượng cà phê nhân xấp xỉ 1,62 triệu tấn, tăng 49.000 tấn.

Hiện tại, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ hai thế giới và dẫn đầu toàn cầu về cà phê robusta. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 1,88 triệu tấn, trị giá 3,5 tỷ USD tăng gần 20% về lượng, tăng 1% về trị giá so với năm 2017.

Xem thêm
Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Mavin nhận Bằng khen của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

Tập đoàn Mavin vừa vinh dự nhận Bằng khen của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam về thành tích xuất sắc trong công tác giai đoạn 2022-2023.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm