Hội thảo được tổ chức tại tỉnh Yên Bái với sự tham gia của đại diện 14 tỉnh miền núi phía Bắc như Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Sơn La, Lào Cai, Phú Thọ, Yên Bái….
Vẫn con huyện nghèo "trắng xã NTM"
Theo số liệu tổng hợp kết quả xây dựng nông thôn mới (NTM) từ báo cáo của các địa phương, đến tháng 3/2025, cả nước đã có gần 6.000 xã (gần 78%) đạt chuẩn NTM, trong đó, có hơn 2.350 xã (gần 40%) đạt chuẩn NTM nâng cao và 597 xã (gần 10%) đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Có 6 huyện gồm: huyện Tuần Giáo (Điện Biên), huyện Mù Cang Chải (Yên Bái), huyện Mường Lát (Thanh Hóa), huyện Quế Phong (Nghệ An), huyện Nam Giang (Quảng Nam), huyện Khánh Sơn (Khánh Hòa) đã có xã được công nhận đạt chuẩn NTM và ra khỏi danh sách huyện “trắng xã NTM”.
Đối với cấp huyện, có 305/645 đơn vị thuộc 59 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM, trong đó có 20 huyện đạt chuẩn NTM nâng cao.

Chương trình xây dựng NTM đã thay đổi diện mạo nhiều làng quê. Ảnh: Thanh Tiến.
Cấp tỉnh, có 23 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn NTM. Có 5 tỉnh gồm: Nam Định, Đồng Nai, Hà Nam, Hưng Yên và Hải Dương đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM . Hiện nay, Hội đồng thẩm định Trung ương đã hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, công nhận tỉnh Trà Vinh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.
Chương trình xây dựng NTM vẫn còn một số hạn chế, kết quả đạt chuẩn xã NTM của một số vùng vẫn còn khoảng cách chênh lệch lớn; còn 4 tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM dưới 30%. Đặc biệt, đến nay vẫn còn huyện nghèo “trắng xã NTM”; 4 tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Quảng Bình, Kon Tum chưa có đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn hoặc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.

Hội thảo lấy ý kiến định hướng thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026-2030 khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc được tổ chức tại Yên Bái. Ảnh: Thanh Tiến.
Hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp chưa đáp ứng được các yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới cho sản xuất nông nghiệp hiệu quả chưa cao. Cơ sở hạ tầng thương mại, logistic, giao thông vận tải còn yếu, chưa thực sự đồng bộ. Hệ thống chợ bán buôn, chợ đầu mối còn chưa đầu tư hiện đại đáp ứng nhu cầu thương mại nông sản tăng nhanh. Chi phí logistics còn cao, chiếm 25% GDP (tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30-40% giá thành sản phẩm.
Công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa đồng đều; chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; làng nghề chưa phát triển mạnh, năng lực hoạt động của hợp tác xã còn một số hạn chế nhất định, chưa mạnh dạn mở rộng phát triển và thực hiện liên kết chuỗi giá trị…
Chất lượng các công trình cơ sở hạ tầng sau khi đạt chuẩn ở một số địa phương đã có dấu hiệu xuống cấp do chưa được quan tâm, duy tu bảo dưỡng thường xuyên. Chất lượng môi trường nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng chưa rõ rệt, ô nhiễm do rác thải, nước thải, thuốc bảo vệ thực vật còn phổ biến. Một số công trình xử lý nước thải, rác thải hoạt động kém hiệu quả. Ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa cao, chưa hình thành thói quen phân loại rác tại nguồn.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước, nhất là ngân sách trung ương, giải ngân rất chậm và phải đề nghị Quốc hội cho phép chuyển nguồn thực hiện qua rất nhiều năm.
Cần điều chỉnh bộ tiêu chí phù hợp chính quyền 2 cấp
Tại hội thảo, đại diện các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc đã nêu ra nhiều vấn đề khó khăn trong thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM. Đồng thời, góp ý, đề xuất các sáng kiến của địa phương về định hướng thực hiện Chương trình giai đoạn 2026-2030 phù hợp với thực tiễn từng vùng miền.
Ông Ngô Trường Sơn, Chánh Văn phòng điều phối NTM Trung ương nhận định, việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị hành chính tại các địa phương hiện nay có ảnh hưởng lớn tới Chương trình MTQG xây dựng NTM. Do đó, cần có sự nhìn nhận, đánh giá một cách tổng quát, phân tích cụ thể từng khía cạnh để có giải pháp phù hợp. Từ góc độ chính sách, cần điều chỉnh về mục tiêu của chương trình, khi nửa cuối năm 2025 có thể gặp phải các khó khăn trong triển khai và tổ chức xét, công nhận đạt chuẩn, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu tổng thể của Chương trình.
Ngoài ra, các mục tiêu đối với cấp xã, cấp huyện cũng cần điều chỉnh cho phù hợp. Về Bộ tiêu chí quốc gia hiện nay đang quy định đối với 3 cấp là tỉnh - huyện - xã cũng cần sự điều chỉnh cho phù hợp với chính quyền 2 cấp. Về việc phân bổ nguồn lực, phân công tổ chức thực hiện các nội dung và xem xét, công nhận đạt chuẩn NTM cũng cần điều chỉnh lại.
Trước bối cảnh và xu hướng phát triển mới, Chương trình MTQG xây dựng NTM cần tập trung một số nhiệm vụ trọng tâm. Thứ nhất, cần thay đổi phương thức thực hiện Chương trình theo hướng quản lý theo mục tiêu, phù hợp với mô hình tổ chức hành chính mới. Điều này đòi hỏi phải có cơ chế tổ chức phù hợp để đảm bảo hiệu quả quản lý khi không còn cấp huyện. Vai trò điều phối của cấp tỉnh cần được tăng cường, trong khi cấp xã phải được trao quyền chủ động nhiều hơn. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế phối hợp linh hoạt giữa các cấp chính quyền để đảm bảo tính hiệu quả trong triển khai chương trình.

Ông Ngô Trường Sơn, Chánh văn phòng Văn phòng điều phối NTM Trung ương phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Thanh Tiến.
Thứ hai, phát triển kinh tế nông thôn phải gắn với chuỗi giá trị bền vững, ứng dụng công nghệ cao và thương mại điện tử. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng suất lao động, mà còn tạo ra nhiều việc làm tại chỗ, giữ chân lao động trẻ và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Thứ ba, thích ứng với biến đổi khí hậu cần trở thành một tiêu chí quan trọng trong phát triển nông thôn. Các địa phương, đặc biệt là các vùng dễ bị tổn thương, cần có giải pháp thích ứng linh hoạt, tập trung vào quản lý tài nguyên nước, phát triển mô hình sản xuất ít phát thải, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.

Các đại biểu tham quan gian trưng bày sản phẩm OCOP tỉnh Yên Bái. Ảnh: Thanh Tiến.
Thứ tư, cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực, không chỉ trong sản xuất nông nghiệp, mà còn trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công và phát triển kinh tế số. Việc phát triển chính quyền số cấp xã sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận các dịch vụ công một cách nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Phát triển nông thôn giai đoạn 2026-2030 không chỉ đơn thuần là tiếp tục mở rộng những thành tựu của giai đoạn trước, mà đòi hỏi có những thay đổi căn bản trong cách tiếp cận, quản lý và thực hiện. Từ đó sẽ giúp xây dựng một nền nông thôn hiện đại, bền vững, thích ứng với thời đại mới, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong dài hạn.
Theo ông Ngô Trường Sơn, song song với việc xây dựng Chương trình cho giai đoạn 2026-2030, sẽ phải khẩn trương rà soát các chính sách hiện có để đảm bảo tính liên tục trong thực hiện Chương trình, không để có sự gián đoạn hay điểm nghẽn. Bên cạnh các giải pháp về chính sách, cần có sự tuyên truyền, động viên các bên liên quan trong thực hiện Chương trình, để tinh thần xây dựng NTM tiếp tục được phát huy.