Thời gian qua những nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học của Viện Nghiên cứu Hải sản khi ứng dụng vào thực tiễn đã các doanh nghiệp và người dân giảm thiểu chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, tăng nguồn thu từ các hoạt động nuôi trồng cũng như chế biến các sản phẩm liên quan đến thủy hải sản.
Từ 2019, một số hướng ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các sản phẩm có giá trị cao như bột nêm dinh dưỡng từ moi và cá nục, thức ăn cá rô phi sản xuất bằng công nghệ thủy phân protein phụ phẩm cá tra có bổ sung lysine từ vi sinh được lên men. Các quy trình công nghệ này đều được ứng dụng vào sản xuất tại các cơ sở sản xuất, góp phần tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng từ nguồn nguyên liệu thủy sản sẵn có.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng đã đã ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như: sản xuất bột nêm dinh dưỡng từ moi và cá nục và sản xuất sản phẩm thức ăn cá rô phi bằng công nghệ thủy phân protein tận dụng từ phế phụ phẩm cá tra và bổ sung nguồn lysine từ sản phẩm của quá trình lên men vi sinh vật.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoàng, Viện Nghiên cứu Hải sản chia sẻ, ý tưởng tận dụng nguồn phụ phẩm chế biến thủy hải sản làm thức ăn chăn nuôi không quá mới. Tuy nhiên những nghiên cứu trước đây mới chỉ tạo ra chế phẩm lysine với hàm lượng thấp và ứng dụng sản xuất quy mô công nghiệp còn rất hạn chế.
Cá rô phi là loài thủy sản nước ngọt mang lại hiệu quả kinh tế cao tuy nhiên các cơ sở chăn nuôi đang phải phụ thuộc hoàn toàn nguyên liệu thức ăn bởi các nhà cung cấp bên ngoài với chi phí cao và thiếu tính ổn định. Do vậy, sau khi các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản nghiên cứu thành công đã tạo được bước tiến dài trong việc thúc đẩy nghiên cứu từ mô hình phòng thí nghiệm ra tới khâu thương mại hóa.
Quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã sử dụng enzyme protease SEB-neutral PL và tiến hành thực hiện thuỷ phân, nguyên liệu là phụ phẩm từ chế biến cá tra gồm đầu, xương, vây. Nguồn phụ phẩm này sau khi được xử lý đã chuyển thành dịch đạm thuỷ phân có hàm lượng lysine trên 40%, và là hỗn hợp axit amin hoàn hảo. Đây là nguồn cung cấp nguyên liệu thức ăn thủy sản giàu dinh dưỡng, dẫn dụ tốt, dễ hấp thụ.
Sau đó, từ chế phẩm giàu lysine chiết xuất từ phụ phẩm cá tra, các nhà khoa học tiến hành xây dựng công thức sản xuất thức ăn cho cá rô phi với quy mô 500kg nguyên liệu/mẻ. Qua thử nghiệm với thức ăn này, cá rô phi tăng trưởng tốt, hệ số thức ăn đạt từ 1,15-1,29%, lợi nhuận ước tính đạt 18%.
“Sản phẩm có tỷ lệ lysine cao, dễ hấp thụ, chất lượng tốt nhưng giá thành thấp hơn khoảng 10-15% so với thức ăn cá rô phi trên thị trường. Nếu dây chuyền sản xuất chạy 100% công suất thiết kế thì thời gian thu hồi vốn chỉ khoảng hơn 2 năm, tỷ lệ lãi ròng đạt 32,75%”, Tiến sĩ Hoàng cho hay.
Được biết, ngoài nghiên cứu trên, các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Hải sản còn có nhiều nghiên cứu liên quan khác, có giá trị thực tiễn lớn như: hoàn thành công công nghệ nuôi cấy mô sẹo trong sản xuất giống rong sụn, đưa Việt Nam gia nhập nhóm không nhiều nước áp dụng thành công công nghệ này và cũng đã tạo được công nghệ nuôi sinh khối quy mô lớn, giá thành rẻ, hỗ trợ đắc lực cho sản xuất giống thủy sản.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Viết Nghĩa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hải sản, công nghệ sinh học đã chứng minh được nhiều ưu điểm trong việc xử lý các vấn đề môi trường, gia tăng hiệu quả sản xuất của ngành. Các nghiên cứu sau khi hoàn thiện đều được chuyển giao cho người dân, doanh nghiệp hoặc phối hợp với các đơn vị sản xuất để nhân rộng sản xuất quy mô lớn, góp phần giải quyết bài toán kinh tế cho doanh nghiệp, đồng thời tăng tính bền vững của ngành thủy sản.