| Hotline: 0983.970.780

Ứng dụng công nghệ sản xuất thức ăn cá rô phi từ phụ phẩm cá tra

Thứ Năm 07/12/2023 , 09:18 (GMT+7)

Viện Nghiên cứu Hải sản đã nghiên cứu thành công và được ứng dụng vào sản xuất quy mô thức ăn cá rô phi bằng công nghệ thủy phân protein phụ phẩm cá tra.

Những nghiên cứu khoa học của Viện Nghiên cứu Hải sản được người dân ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Đinh Mười.

Những nghiên cứu khoa học của Viện Nghiên cứu Hải sản được người dân ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Đinh Mười.

Thời gian qua những nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học của Viện Nghiên cứu Hải sản khi ứng dụng vào thực tiễn đã các doanh nghiệp và người dân giảm thiểu chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, tăng nguồn thu từ các hoạt động nuôi trồng cũng như chế biến các sản phẩm liên quan đến thủy hải sản.

Từ 2019, một số hướng ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các sản phẩm có giá trị cao như bột nêm dinh dưỡng từ moi và cá nục, thức ăn cá rô phi sản xuất bằng công nghệ thủy phân protein phụ phẩm cá tra có bổ sung lysine từ vi sinh được lên men. Các quy trình công nghệ này đều được ứng dụng vào sản xuất tại các cơ sở sản xuất, góp phần tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng từ nguồn nguyên liệu thủy sản sẵn có.

Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng đã đã ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như: sản xuất bột nêm dinh dưỡng từ moi và cá nục và sản xuất sản phẩm thức ăn cá rô phi bằng công nghệ thủy phân protein tận dụng từ phế phụ phẩm cá tra và bổ sung nguồn lysine từ sản phẩm của quá trình lên men vi sinh vật.

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoàng, Viện Nghiên cứu Hải sản chia sẻ, ý tưởng tận dụng nguồn phụ phẩm chế biến thủy hải sản làm thức ăn chăn nuôi không quá mới. Tuy nhiên những nghiên cứu trước đây mới chỉ tạo ra chế phẩm lysine với hàm lượng thấp và ứng dụng sản xuất quy mô công nghiệp còn rất hạn chế.

Cá rô phi là loài thủy sản nước ngọt mang lại hiệu quả kinh tế cao tuy nhiên các cơ sở chăn nuôi đang phải phụ thuộc hoàn toàn nguyên liệu thức ăn bởi các nhà cung cấp bên ngoài với chi phí cao và thiếu tính ổn định. Do vậy, sau khi các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản nghiên cứu thành công đã tạo được bước tiến dài trong việc thúc đẩy nghiên cứu từ mô hình phòng thí nghiệm ra tới khâu thương mại hóa.

Nghiên cứu được doanh nghiệp ứng dụng để sản xuất quy mô công nghiệp thức ăn cho cá rô phi. Ảnh: VNCHS.

Nghiên cứu được doanh nghiệp ứng dụng để sản xuất quy mô công nghiệp thức ăn cho cá rô phi. Ảnh: VNCHS.

Quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã sử dụng enzyme protease SEB-neutral PL và tiến hành thực hiện thuỷ phân, nguyên liệu là phụ phẩm từ chế biến cá tra gồm đầu, xương, vây. Nguồn phụ phẩm này sau khi được xử lý đã chuyển thành dịch đạm thuỷ phân có hàm lượng lysine trên 40%, và là hỗn hợp axit amin hoàn hảo. Đây là nguồn cung cấp nguyên liệu thức ăn thủy sản giàu dinh dưỡng, dẫn dụ tốt, dễ hấp thụ.

Sau đó, từ chế phẩm giàu lysine chiết xuất từ phụ phẩm cá tra, các nhà khoa học tiến hành xây dựng công thức sản xuất thức ăn cho cá rô phi với quy mô 500kg nguyên liệu/mẻ. Qua thử nghiệm với thức ăn này, cá rô phi tăng trưởng tốt, hệ số thức ăn đạt từ 1,15-1,29%, lợi nhuận ước tính đạt 18%.

“Sản phẩm có tỷ lệ lysine cao, dễ hấp thụ, chất lượng tốt nhưng giá thành thấp hơn khoảng 10-15% so với thức ăn cá rô phi trên thị trường. Nếu dây chuyền sản xuất chạy 100% công suất thiết kế thì thời gian thu hồi vốn chỉ khoảng hơn 2 năm, tỷ lệ lãi ròng đạt 32,75%”, Tiến sĩ Hoàng cho hay.

Được biết, ngoài nghiên cứu trên, các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Hải sản còn có nhiều nghiên cứu liên quan khác, có giá trị thực tiễn lớn như: hoàn thành công công nghệ nuôi cấy mô sẹo trong sản xuất giống rong sụn, đưa Việt Nam gia nhập nhóm không nhiều nước áp dụng thành công công nghệ này và cũng đã tạo được công nghệ nuôi sinh khối quy mô lớn, giá thành rẻ, hỗ trợ đắc lực cho sản xuất giống thủy sản.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Viết Nghĩa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hải sản, công nghệ sinh học đã chứng minh được nhiều ưu điểm trong việc xử lý các vấn đề môi trường, gia tăng hiệu quả sản xuất của ngành. Các nghiên cứu sau khi hoàn thiện đều được chuyển giao cho người dân, doanh nghiệp hoặc phối hợp với các đơn vị sản xuất để nhân rộng sản xuất quy mô lớn, góp phần giải quyết bài toán kinh tế cho doanh nghiệp, đồng thời tăng tính bền vững của ngành thủy sản.

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Thiết bị giám sát hành trình mất kết nối nhiều ngày, ngư dân khốn đốn

Thiết bị giám sát hành trình mất kết nối khiến ngư dân như ngồi trên đống lửa. Nhiều chủ tàu cập cảng tại Quảng Trị rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm