| Hotline: 0983.970.780

NK muối: DN đứng giữa lợi nhất

Thứ Sáu 26/02/2010 , 10:19 (GMT+7)

Như NNVN phản ánh, Bộ Công thương đã cấp hạn ngạch 170.000/260.000 tấn muối năm 2010 trong khi giá muối NK thấp hơn trong nước, đẩy giá muối nội vào cảnh ế ẩm.

Như NNVN phản ánh, Bộ Công thương đã cấp hạn ngạch 170.000/260.000 tấn muối năm 2010 trong khi giá muối NK thấp hơn trong nước, đẩy giá muối nội vào cảnh ế ẩm.

Trao đổi với chúng tôi, ông Bùi Sơn Long, GĐ TT Thực nghiệm & chuyển giao công nghệ muối biển (TCty Muối Việt Nam) cho biết, theo quy luật thì cuối năm một lượng lớn muối được tiêu thụ. Tuy nhiên từ cuối 2009 dù giá muối trong nước giảm (giá muối thô rớt từ 1,6 triệu đồng/tấn xuống còn 1,1 triệu), song tiêu thụ rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu do giá muối thế giới giảm, DNNK về nhiều nên diêm dân khó tiêu thụ.

Ông Long phân tích: Từ cuối 2008 giá muối trong nước ở “đỉnh cao”, cụ thể muối đã chế biến giá khoảng 3 triệu đồng/tấn. Đến đầu 2009 giá bắt đầu giảm, chỉ còn 2,4 triệu. Trong khi đó giá muối chế biến NK về đến cửa khẩu (tính cả thuế) chỉ từ 1,8-1,9 triệu. Cùng đó, giá muối thô mua tại đồng muối của diêm dân là 850.000đ/tấn, cộng chi phí đóng bao bì, vận chuyển về Hà Nội là 1,3 triệu đồng, trong khi giá muối thô NK về đến cảng chỉ 1,2 triệu. Như vậy giá muối NK rẻ hơn muối nội 100.000đ/tấn, hơn nữa chất lượng muối ngoại lại tốt hơn. Với lợi thế ấy, chắc chắn muối ngoại nhập về sẽ đè bẹp muối nội.

“Sau Tết Canh Dần chúng tôi có vào các đồng muối ở Ninh Thuận tìm hiểu để lấy hàng, song thấy chất lượng muối ở đây rất thấp. Tại đồng muối Đầm Vua còn tồn khoảng 5.000 tấn muối SX từ năm ngoái chưa tiêu thụ được do chất lượng thấp, giá chào bán lại cao (850.000đ/tấn) nên chúng tôi chưa thể mua được”- ông Long nói.

Theo nhận định của một số DN chế biến muối thì năm 2010 VN tiếp tục chịu ảnh hưởng giá muối thế giới. Nếu giá muối trong nước không giảm theo mặt bằng chung thì rất khó tiêu thụ. Nghề muối và diêm dân đang đứng trước một "lựa chọn" khó khăn là: Cứ tiếp tục làm ra muối với chất lượng không cao trong khi giá bán muối lại cao thì không tiêu thụ được. Nhưng không SX muối nữa thì cả triệu diêm dân biết làm gì. Hơn nữa đất nước có cả ngàn km bờ biển chẳng lẽ cứ quanh năm đi NK muối về ăn?

Ông Bùi Sơn Long cho rằng, điều nghịch lý nữa là trong khi giá muối giảm mạnh thì người tiêu dùng trong nước vẫn phải mua giá cao do hệ thống bán lẻ ăn quá dầy. Cụ thể muối tinh thành phẩm các Cty xuất tại xưởng chỉ 2 triệu đồng/tấn, song DN mua về đóng gói bán ra đắt gấp đôi, người tiêu dùng phải mua 4.500 – 5.000đ/kg muối; giá muối gia vị cũng khoảng 4.000đ/gói 250g…Từ khi xuất hàng tại đồng muối đến “bàn ăn”, giá đội lên gấp từ 5 - 6 lần. Để đảm bảo cung cầu, bình ổn thị trường các cơ quan chức năng phải can thiệp để hệ thống bán lẻ không “tát nước theo mưa”.

Theo Cục Chế biến NLTS-NM, năm 2009 nước ta cần khoảng 1,34 triệu tấn muối, trong đó sử dụng ăn uống 530.000 tấn, dự trữ quốc gia 40.000 tấn, phục vụ công nghiệp hóa chất 230.000 tấn...

Một vị lãnh đạo Cục Chế biến Nông lâm thuỷ sản và nghề muối (Bộ NN-PTNT) cho rằng, nước ta SX muối chưa nhiều, hàng năm vẫn phải NK. Nhưng NK bao nhiêu, thời điểm nào thì phải đặt lên bàn cân đắn đo, suy tính chứ không thể làm tuỳ tiện. Hơn nữa dẫu biết rằng do công nghệ SX lạc hậu nên giá muối trong nước còn cao nhưng cũng không thể cứ nhập ồ ạt muối ngoại với suy nghĩ cứ rẻ là nhập.

Bởi ngay cả các nước phát triển thì nông dân, diêm dân của họ cũng vẫn được bảo hộ ở một mức độ nào đó. Vả lại không phải nhập muối rẻ về là người tiêu dùng trong nước được mua muối hạ. Thực tế với nhiều mặt hàng nông sản giá rẻ NK về, DN "mông má" thêm hàng tá các loại chi phí vào làm đội giá lên cũng đâu có thua kém giá hàng hoá cùng loại SX trong nước. Khi đó chính DNNK hưởng lợi lớn nhất, chứ không phải người tiêu dùng.

Dự báo năm 2010 thị trường vẫn thiếu muối trầm trọng. Do thiếu vốn nên TCty Muối không có khả năng mua muối dự trữ. Vì vậy, trước mắt cần giữ nguyên diện tích đồng muối hiện có, tăng cường thâm canh, cải tạo hạ tầng đồng muối. Chỉ có biện pháp tăng năng suất mới có thể giúp nâng sản lượng muối lên. Đồng thời, phải thúc đẩy nhanh hơn dự án xây dựng khu SX muối công nghiệp tập trung tại Quán Thẻ (Ninh Thuận) để hạn chế NK muối.

Xem thêm
Bàn cách tận dụng hết dư địa cho tinh dầu quế

HÀ NỘI Thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và chuyên môn, quy trình sản xuất chưa hoàn thiện và chưa có phương pháp tiếp cận thị trường toàn cầu là khó khăn chung của ngành quế.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Tập đoàn PAN đặt doanh thu 14.700 tỷ năm 2024 với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên

Trước lo ngại về biến đổi khí hậu, khó khăn chung của bối cảnh kinh tế, Tập đoàn PAN đặt mục tiêu doanh thu thận trọng tăng 12% với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm