Nhiều người thường tự ti: “Quê tôi, nhà tôi chẳng có gì”, “Tôi vào đời chẳng có gì, ngoài hai bàn tay trắng”,… Nỗi cám cảnh “mình không có gì” dễ dẫn đến tâm lý trông đợi người khác đến giúp mình, lo cho mình.
Nhiều tổ chức chính trị - xã hội, những nhóm thiện nguyện ra đời cùng hướng đến thông điệp nhân văn “không để ai bị bỏ lại phía sau”, qua từng hoạt động, phần việc đầy tính nhân văn: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Tất cả đều chung một mục đích mang những cái “có” đến những người “không có”. Nhưng đâu chỉ đơn giản như vậy.
Ông bà mình đã đúc kết chân lý: “Của cho không bằng cách cho”. Vậy “cách cho” là gì? Ai là người “có” lo cho người “không có”. Và có phải thực sự vì “tôi chẳng có gì” mà cái nghèo, cái khó cứ mãi đeo bám hay không?
Có một câu chuyện đáng để cho cả “người có” và “người không có” cùng suy ngẫm. Một nông dân oán thán với một người giàu rằng do “mình không có gì” nên cuộc sống luôn nghèo khó, túng quẫn.
Và sau đây là đối đáp giữa hai người. Người giàu: “Anh nói không có gì vậy tôi xin mua cánh tay anh giá 1 triệu đồng, anh đồng ý không?”. Người nông dân: “Ông đùa à, tôi mất cánh tay thì làm sao còn làm ăn gì được!”. Và những câu đối đáp tiếp theo vẫn theo cách ngã giá từng bộ phận cơ thể: đôi mắt giá 10 triệu, trái tim giá 100 triệu, bộ não giá 500 triệu,…
Tất cả đều không được người nông dân chấp nhận với bất kỳ giá nào. Lúc ấy, người giàu mới nói: “Vậy thì anh đâu phải “không có gì”, thậm chí còn “có nhiều” là đằng khác, nào chân tay, nào đôi mắt, nào trái tim, nào khối óc”. Tất cả đều có thể tạo ra của cải, tài sản kia mà!
Câu chuyện trên để nhắc nhở rằng, nếu chỉ ngồi than vãn “mình không có gì”, thì “người khó” sẽ cứ ngồi trông chờ “người có” đến lo đến giúp mình. Như vậy cần phải thay đổi “cách cho”. Đó là kiên nhẫn đồng hành giúp người khó nhận ra “những điều mình đang có”, chứ không chìm sâu trong cách nghĩ “mình không có”.
Đó là không chỉ mang đến con cá hoặc cần câu, mà còn giúp cho người nông dân nhận ra được những điều “mình đang có” và biết cách phát huy “điều mình có” thành giá trị. “Điều có” đầu tiên và quan trọng nhất ở tất cả địa phương là “cộng đồng dân cư”.
Nếu cộng đồng được nâng cao sự hiểu biết, năng lực, chắc chắn sẽ tạo thành sức mạnh, nguồn lực, sức sống trong từng địa phương. Sự hiểu biết cùng với kỹ năng chính là tri thức. Khởi nguồn ý tưởng “tri thức hoá nông dân” bắt đầu là như vậy.
Như vậy là đã đến lúc phải có cách tiếp cận khác. Phải cung cấp kiến thức, huấn luyện kỹ năng cho bà con nông dân, nâng cao năng lực cho cộng đồng dân cư. Người nông dân quanh năm bám ruộng, bám vườn khó có cơ hội tiếp cận tri thức mới. Không tiếp cận cái mới, thì vẫn quanh quẩn với cách nghĩ cũ, cách làm cũ.
Tri thức hoá nông dân giúp nông dân thay đổi cách nghĩ, cách làm. Tri thức hoá không phải chuyện gì to tát lắm đâu. Tri thức hoá không phải là đưa tất cả bà con đến trường để học dài hạn với những lý thuyết hàn lâm.
Những không gian cộng đồng, nhà văn hoá ấp, thôn, bản, những trung tâm học tập cộng đồng cấp xã sẽ là những nơi đều có thể giúp tri thức hoá nông dân. Những chương trình hướng nghiệp trong các trường phổ thông cũng là nơi ươm mầm thế hệ nông dân tri thức mới.
Ngay cả các chương trình “đồng hành với nông dân nơi đầu bờ, dưới tán vườn” cũng là những buổi chia sẻ hữu ích về kỹ thuật canh tác, thông tin thị trường, kết nối bán buôn,...
Tri thức hoá nông dân không dừng lại ở một lần, một lớp, hay một chương trình, mà là hành trình liên tục và xuyên suốt. Phải phát triển cả về độ rộng lẫn độ sâu, từ không gian học tập đến cấp độ tri thức, từ những nhân tố tích cực tham gia ban đầu đến cả cộng đồng dân cư nông thôn.
Hình như chúng ta đã quen với tư duy đi từ trên xuống dưới. Tư duy đó sẽ tạo ra sự trông chờ, ỷ lại. Cấp dưới chờ cấp trên, người dân chờ nhà nước, cộng đồng chờ xã hội. Trong khi đó, nhiều quốc gia đã có cách tiếp cận khác. Đó là đóng góp, là hành động, là sự chủ động, từ cấp cơ sở đến cấp cao hơn, từ người dân đến cộng đồng, từ cộng đồng đến xã hội, từ xã hội đến chính quyền. Đó là cách tiếp cận “phát triển cộng đồng dựa vào nội lực”.
Thay vì tìm hiểu “cộng đồng cần gì” để hỗ trợ từ bên ngoài, thì giúp nhận diện “cộng đồng có gì”, chuyển từ cách tiếp cận truyền thống là dựa vào những vấn đề, những khó khăn hay nhu cầu vật chất đơn thuần của cộng đồng sang cách tiếp cận dựa vào những gì mà cộng đồng có hay là tài sản quý giá chung của cộng đồng như tiềm năng nhân lực, con người, các tổ chức cộng đồng, sự gắn kết trong cộng đồng, nguồn vốn văn hoá, nguồn vốn xã hội,… hay nói cách khác là cách tiếp cận dựa vào năng lực của chính cộng đồng.
Quá trình đó đòi hỏi phải tri thức hoá nông dân, thông qua triết lý xây dựng “xã hội học tập”, nâng cao “năng lực xã hội” của nhiều quốc gia phát triển đi lên từ nông nghiệp. “Phát triển cộng đồng dựa vào năng lực cộng đồng” cũng là quá trình tri thức hoá nông dân.
“Hành trình vạn dặm bắt đầu từ một bước chân!”. Thay vì do dự, chần chừ, nâng lên đặt xuống, hãy cùng nhau bước những bước đầu tiên trên hành trình tri thức hoá nông dân!