Theo tiếng Tày, tiếng Nùng, Lồng Tồng có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang đậm dấu ấn của nền sản xuất nông nghiệp từ phần nghi lễ khi hội, các nghi thức, sản vật dân cúng đến các trò chơi trong lễ hội. Lễ hội Lồng Tồng còn mang ý nghĩa bắt đầu một năm sản xuất mới, cầu chúc cho năm mới mùa màng bội thu.
Đã xuất hiện từ rất lâu đời, lễ hội Lồng Tồng đã được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và một số tỉnh Tây Bắc.
Lễ hội Lồng Tồng thường được tổ chức trên một thửa ruộng lớn gọi là ruộng xuống đồng. Theo tục lệ từ ngàn xưa, tất cả gia đình tham gia hội đều mang theo cỗ để làm lễ vật tạ thiên địa, cúng thần đất, thần núi, thần nông và Thành Hoàng cầu cho mưa thuận gió hoà, gia súc, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên no ấm… Đó là những mâm cỗ thịnh soạn, được trình bày đẹp gồm có xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu slec, bánh khảo, bánh dày, chè lam…
Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, các bô lão và tráng đinh rước thần nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng. Các gia đình rước cỗ, bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng chư thần và tuyên bố phá cỗ. Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình sẽ được xem là điều may mắn cho cả năm.
Phá cỗ xong, mọi người tiếp tục ca hát và tham gia các trò chơi dân gian như ném còn, kéo co, đẩy gậy, đánh quay, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao duyên (hát lượn), thi sản vật địa phương, cờ tướng…
Đã nhiều năm được tham gia lễ hội Lồng Tồng tại địa phương, chị Nông Thị Kim Thư (xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng) chia sẻ, bản thân rất háo hức mong đến ngày hội để được đi chơi hội tung còn. Chị Thư đã chuẩn bị, làm trước 2 quả còn từ mùng 2 Tết để đến chơi ở lễ hội.
“Trong lễ hội Lồng Tồng, ném còn là trò chơi vui nhất, đông người tham gia nhất. Người dân địa phương quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới có thể làm ăn thuận lợi”, chị Thư cho hay.
Còn đối với một người trẻ như bạn Nông Thị Ngọc Mai (xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng), màn múa hát trong lễ hội luôn có một sức hút lớn. Là hai hình thức đối ca giao duyên nam nữ, việc nam thanh nữ tú trong làng chia làm hai phe để hát sli, hát lượn tái hiện lại tục cầu mùa của người xưa.
"Là lễ hội quan trọng nhất trong năm nên mọi người đều mặc y phục sắc tộc đẹp nhất. Các bà, các cô cũng sẽ có dịp để dùng những đồ trang sức quý nhất. Sau đó biểu diễn các điệu hát sli, hát lượn trong làng, ở khe suối hay ở các cánh rừng. Đồng thời, những điệu múa tiêu biểu của hội Lồng Tồng là múa sư tử và những điệu múa lễ hội khác của người Tày, Nùng là xòe chiêng, múa then cũng là nét đặc sắc trong ngày hội lớn của dân tộc", Ngọc Mai chia sẻ.
Không chỉ là một lễ hội dân gian giàu bản sắc văn hóa dân tộc, từ bao đời nay, lễ hội Lồng Tồng còn là một món ăn tinh thần đầy ý nghĩa không thể thiếu trong ngày xuân và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc.