Sức khỏe đất, thực tiễn và hành động

Đất đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

HỮU ĐỨC - HOÀNG VŨ - Thứ Năm, 12/11/2020 , 13:34 (GMT+7)

GS.TS Ngô Ngọc Hưng - Bộ môn Khoa học Đất, Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng - Trường Đại học Cần Thơ kiến giải thực trạng đất ở một số vùng hiện nay.

GS.TS Ngô Ngọc Hưng. Ảnh: Hữu Đức.

Thưa GS, quá trình kiến tạo ĐBSCL là vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ và trải qua thời gian dài định hình hệ thống canh tác, ông nhận định như thế nào về thực trạng đất đai vùng này?

Mặc dù trải qua hơn một thế kỷ khai phá đất đai cho trồng trọt, đặc tính đất của mỗi tiểu vùng về cơ bản hầu như ít bị thay đổi.

Sự ổn định này được lý giải qua các nghiên cứu về địa chất cho thấy từ hơn 5.000 năm trước, ĐBSCL được tạo thành từ sự bồi tụ phù sa của sông Mekong với sự hình thành dần các tiểu vùng. Có 6 tiểu vùng sinh thái nông nghiệp, sự phân bố của mỗi tiểu vùng gắn liền với từng loại đất, tính chất của 2 nhóm đất với diện tích lớn được đánh giá ít có sự thay đổi do tác động của con người.

Đối với đất phù sa ngọt, cùng với quy luật bồi tụ, thành phần cấp hạt của các nhóm đất này vẫn ổn định theo thời gian. Các hạt phù sa có kích thước to sẽ lắng ở ven sông và cấp hạt nhỏ hơn sẽ được dòng nước mang đến những vùng đất trũng thấp, xa sông.

Khảo sát đất cho thấy từ tầng mặt đến độ sâu 100cm, nhóm đất phù sa ven sông có hàm lượng sét 35 - 45% và nhóm đất phù sa xa sông lớn có hàm lượng sét trên 55%.

Với tốc độ bồi lắng phù sa hàng năm là 2,5 kg/m2 (0,25 cm/năm), mỗi nhóm đất này với cấp hạt đặc trưng ở độ dày 100cm đã được bồi lắng ổn định ước khoảng 400 năm. Hơn nữa, kích thước của các vật liệu khoáng (cát, thịt, sét) được xem là đặc tính cơ bản của đất vì kích thước của nó sẽ không thay đổi theo thời gian.

Đối với đất phèn, trải qua hơn một thế kỷ khai phá, các vùng đất phèn ở ĐBSCL được đánh giá ít có sự thay đổi. Do đất phèn được tạo thành do sự hiện diện của các tầng phèn nằm bên dưới lớp đất mặt, các hoạt động canh tác trên đất mặt sẽ khó làm thay đổi tính chất của đất phèn.

Trong quá trình canh tác thâm canh, tăng vụ có ý kiến cho rằng đất bạc màu, năng suất kịch trần và cây trồng phải phụ thuộc nhiều vào phân bón?

Liên quan nhiều nhất đến thâm canh, tăng vụ trên đất lúa là sự giảm “hiệu quả sử dụng” của đạm. Vấn đề này đã được thế giới đánh giá là yếu tố quan trọng gây suy thoái đất.

Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy việc thâm canh tăng vụ (trên 3 vụ lúa/năm) có khuynh hướng làm giảm tính sản xuất của đất.

Mặc dù lượng chất hữu cơ trong đất được ghi nhận có gia tăng vì khi trồng nhiều vụ lúa trong năm, lượng hữu cơ của rễ lúa được tạo thêm trong đất qua các vụ trồng.

Tuy nhiên do tình trạng đất bị ẩm liên tục, điều này đã làm giảm sự phân hủy chất hữu cơ trong đất. Hơn nữa, trong điều kiện khử do sự ngập nước trong thời gian dài, các hợp chất hữu cơ khó khoáng hóa mang nhiều gốc phenol đã được hình thành trong đất và nó đã gây trở ngại khả năng cung cấp N cho cây lúa.

Kết quả nghiên cứu từ chương trình hợp tác giữa Công ty Cổ phần phân bón dầu khí Cà Mau và Đại học Cần Thơ (giai đoạn 2016 - 2018), cho thấy với lượng bón 90kg N/ha, năng suất lúa trung bình là 6,0 - 6,5 tấn/ha, trong đó 4 - 4,5 tấn/ha (chiếm 65-70%) được tạo nên từ N của đất. Tuy nhiên, một vài địa điểm phải bón 120 kg N/ha để có thể đạt 6,5 tấn/ha.

Vì vậy để duy trì mức năng suất như trước đây, nông dân phải tăng lượng N bón cho cây lúa. Tuy nhiên, dù lượng bón N tăng lên trên 120 kg N/ha thì năng suất cũng sẽ không gia tăng vì nguồn N từ phân bón không thể thay thế nguồn N của đất. Tương tự đối với các biểu loại đất khác, dù lượng phân N tăng trên 90kg N/ha cũng không thể làm tăng năng suất lúa.

Thâm canh cây lúa nhưng một số địa phương bỏ tập quán cày ải, phơi đất, thậm chí bón thừa phân, cung cấp dinh dưỡng không hợp lý, lãng phí, ông có khuyến cáo gì?

Cày ải, phơi đất là tập quán lâu đời, được chứng minh là một biện pháp hiệu quả cho nâng cao độ phì nhiêu của đất vì nó giúp cho các dưỡng chất trong đất từ dạng khó hữu dụng chuyển hóa thành dạng dễ hữu dụng cho cây trồng. Việc cày ải, phơi đất cần được duy trì trong qui trình canh tác lúa.

Trong bón phân đạm (N), lân (P) và kali (K) cho cây lúa, việc bón thiếu hoặc thừa N sẽ dễ được nhận biết, khi thiếu N cây lúa sẽ biểu hiện triệu chứng vàng lá, ít đẻ nhánh hoặc khi bón quá thừa N sẽ biểu hiện cây lúa bị lốp đổ, bị sâu bệnh tấn công. Tuy nhiên, việc bón thiếu hoặc thừa phân P và K đối với cây lúa lại không có biểu hiện rõ ràng.

Với thử nghiệm bón P và K qua nhiều năm trên nhiều địa điểm trồng lúa ở ĐBSCL, kết quả cho thấy hiếm khi có sự gia tăng năng suất khi được bón P, K, mặc dù có một vài nơi được ghi nhận năng suất có thể tăng thêm 0,3-0,5 tấn/ha trong khi năng suất bình quân của vùng là 6,5 tấn/ha.

Điều này có nghĩa hiện tại trong đất lúa đang có một lượng lưu tồn P do bón thừa ở các mùa vụ trước. Đối với K thì lượng K đủ đáp ứng nhu cầu cho cây lúa nhờ vào sự phóng thích K từ khoáng sét.

Do đó, tập quán bón P và K cho lúa vào mỗi vụ trồng ở ĐBSCL được đánh giá có hiệu quả thấp, mặc dù lượng P lưu tồn trong đất từ việc bón thừa sẽ được cây lúa sử dụng sau này.

Cải tạo đất phèn ở vùng đất trũng trồng khoai lang ở tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Hữu Đức.

Quá trình chuyển đổi SX có nông dân một số địa phương lập vườn cây ăn quả trên đất phèn nặng, đất thấp ở vùng trũng nên hiệu quả thấp. Nếu phân vùng cây trồng thích nghi trong điều kiện mới cần kiểm soát và điều chỉnh như thế nào?

Việc lập vườn cây ăn quả trên đất phèn nặng hoặc trên đất thấp ở vùng trũng được xem là không bền vững vì các lý do sau: Đối với đất phèn nặng ở ĐBSCL là đất có tầng phèn xuất hiện gần tầng đất mặt (0,3m), độ dày tầng phèn có thể đạt 1,5m đến 4,0m tùy vùng.

Do tầng phèn xuất hiện gần tầng canh tác và với độ dày, việc lên liếp trên đất phèn nặng khó tránh khỏi sự xáo trộn, điều này sẽ tạo ra nhiều độc chất trong tầng canh tác. Đối với đất phèn nặng sau khi lên liếp, cần thời gian đủ lâu thì mới giảm được tác hại của độc chất đến cây trồng.

Đối với đất thấp ở vùng trũng, nếu đất nằm trong vùng đê bao, vẫn cần nâng cao mặt liếp để tránh sự ngập nước gây hại đến tầng rễ. Tuy nhiên, việc lập liếp với đất có hàm lượng sét cao (trên 55%) thì đất liếp thường sẽ bị nén dẽ, kém thoát nước, điều này không thuận lợi đối với sinh trưởng của cây trồng.

Xin cảm ơn ông!

Làm thế nào sử dụng hợp lý, gia tăng hiệu quả sản xuất trên vùng đất phù sa ngọt, đất phèn, đất nhiễm mặn có diện tích khá lớn trong vùng để thích ứng với BĐKH?

Đối với đất phù sa ngọt 1,2 triệu ha (30% diện tích vùng), phân bố ở vùng ven sông Tiền, sông Hậu và vùng trũng xa sông lớn. Theo nhận định từ xưa của các nhà khoa học, đất phù sa ven sông là nơi trồng cây ăn trái phù hợp nhất vì đất có hàm lượng sét 35-45%, tỷ lệ này là yếu tố quan trọng làm nên tính phù hợp cho nhiều loại cây trồng cạn.

Đối với đất phèn có diện tích lớn hơn 1,6 triệu ha (41% diện tích vùng), phân bố ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, vùng trũng sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Ngoại trừ đất phèn nặng, việc trồng lúa nước trên đất phèn nhẹ và trung bình sẽ ít bị ảnh hưởng của phèn vì tiến trình khử trong đất ngập nước sẽ hóa giải độ chua và độc chất trong đất.

Với đất nhiễm mặn 750.000ha (19% diện tích vùng), phân bố dọc theo ven biển Đông và vịnh Thái Lan. Vùng đất mặn ven biển có điều kiện khí hậu với 2 mùa mưa nắng rõ rệt, mùa nắng nông dân nuôi tôm, mùa mưa trồng lúa nên đã hình thành hệ thống canh tác lúa - tôm.

HỮU ĐỨC - HOÀNG VŨ
Tin khác
Kinh nghiệm hay từ mô hình ‘xen canh lúa - tôm càng xanh, luân canh tôm sú’
Kinh nghiệm hay từ mô hình ‘xen canh lúa - tôm càng xanh, luân canh tôm sú’

Ông Mai Văn Quốc ngụ ấp Sở Tại, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước (Cà Mau) đã nuôi thành công mô hình ‘xen canh lúa - tôm càng xanh, luân canh tôm sú’.

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Măng tre tứ quý giúp dựng cơ nghiệp
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Măng tre tứ quý giúp dựng cơ nghiệp

Quả đồi dốc cao, cằn cỗi, nên nhiều năm bỏ hoang, chẳng ai muốn làm. Cho đến khi cặp vợ chồng già này đến lập nghiệp và thu tiền tỷ từ măng tre tứ quý.

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Giàu nhờ tư duy sắc bén và cần cù
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Giàu nhờ tư duy sắc bén và cần cù

Với hơn 30ha đất, ông trồng 8ha bơ, 5ha sầu riêng, 10ha bưởi, 7ha hồ tiêu... Bình quân mỗi năm, gia đình ông thu hơn chục tỷ đồng sau khi trừ chi phí.

Bí kíp sản xuất thanh long sạch
Bí kíp sản xuất thanh long sạch

Bình Thuận Nhờ cần cù, chịu khó học hỏi và ứng dụng khoa học kỹ thuật, nông dân Nguyễn Văn Thanh đã tìm ra quy trình sản xuất thanh long sạch đáp ứng yêu cầu của thị trường khó tính.

Công nghệ tạo hạt phân bón - Lời giải cho bài toán giảm phát thải
Công nghệ tạo hạt phân bón - Lời giải cho bài toán giảm phát thải

Với mục tiêu giảm lượng phân bón, nhiều công nghệ hiện đại được các nhà máy sản xuất nghiên cứu như công nghệ nano, công nghệ urê hóa lỏng, công nghệ phân bón tan chậm...

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Vườn sầu riêng 'sinh' tiền của cặp vợ chồng 9X
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Vườn sầu riêng 'sinh' tiền của cặp vợ chồng 9X

Vườn sầu riêng 22 năm tuổi sum suê, lúc lỉu những chùm trái, canh tác theo quy trình sạch, đã trở thành điểm tham quan ưa thích của khách du lịch khi đến Tà Đùng.

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Làm giàu với kỹ thuật trồng xen nhiều nông sản giá trị cao
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Làm giàu với kỹ thuật trồng xen nhiều nông sản giá trị cao

Nhờ nắm được quy trình sinh trưởng của từng loại cây và trồng xen nhiều loại giá trị cao, Chủ tịch Hội nông dân xã Đắk P’lao đã tạo cơ nghiệp lớn, bền vững.

Di truyền học - Trụ cột của các khoa học về sự sống
Di truyền học - Trụ cột của các khoa học về sự sống

Thông qua bài viết ngắn này chúng tôi muốn vinh danh mẹ thiên nhiên, vinh danh các ngành khoa học về sự sống, đồng thời nhấn mạnh vai trò của di truyền học hiện đại như một trọng tâm, trụ cột, xương sống của các khoa học về sự sống. 

Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Kỹ thuật biến cá 'mềm' thành 'giòn'
Nông dân '4 chấm' ở Đắk Nông: Kỹ thuật biến cá 'mềm' thành 'giòn'

Không chỉ chịu khó làm lụng, đôi vợ chồng nông dân còn làm giàu nhờ nắm chắc kỹ thuật, nuôi thành công cá trắm, chép từ 'mềm' sang 'giòn', chất lượng cao, lợi nhuận tốt.

Hiệu quả từ lớp dạy nghề ra đến ruộng
Hiệu quả từ lớp dạy nghề ra đến ruộng

Dạy nghề cho lao động người dân tộc thiểu số, gắn với giảm nghèo bền vững là mô hình hay, được triển khai rộng rãi ở Gia Lai. Huyện Đăk Đoa là một điển hình.

Cấp bách cải thiện khả năng kháng bạc lá cho giống lúa chủ lực TBR225
Cấp bách cải thiện khả năng kháng bạc lá cho giống lúa chủ lực TBR2251

Theo AHLĐ Trần Mạnh Báo - Chủ tịch ThaiBinh Seed, nếu thiếu cơ chế thúc đẩy việc ứng dụng sản phẩm khoa học vào thực tiễn, công sức nghiên cứu sẽ trở nên lãng phí.

Những ‘tay lái lụa’ trên cánh đồng
Những ‘tay lái lụa’ trên cánh đồng

Quảng Bình Hơn chục nông dân là chủ của những chiếc máy cày trổ tài cùng nhau để bình chọn người cày nhanh, cày đẹp…