Nước ăn còn thiếu, nói gì đến nước tắm
Nhắc đến Cà Lò, bản vùng biên của xã Khánh Xuân, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng thì những người đã nghe đến cái tên này đều có chung một suy nghĩ về một bản làng xa xôi, khó khăn, thiếu ăn, thiếu quần áo ấm…, thiếu đủ thứ. Chỉ có những người có công việc mới bỏ cả ngày trời để đi từ thành phố Cao Bằng vào tới bản Cà Lò, mất cả buổi nếu đi từ trung tâm huyện Bảo Lạc,… nói như vậy cũng đủ để thấy việc tới được bản vùng biên này không phải chuyện dễ dàng.
Phần lớn mọi người nhắc đến Cà Lò chỉ qua những câu chuyện truyền tai nhau, chứ đến được nơi đây chỉ có rất ít người. Vì vậy, đối với những người chưa từng ở lại Cà Lò đến ngày thứ 2, thì sẽ không thể hiểu được bà con sống thiếu thốn, cực khổ như thế nào.
Điều không thể thiếu trong sinh hoạt của con người và vật nuôi nói chung đó là nguồn nước, thì ở Cà Lò cũng không có (kể cả là nguồn nước tự nhiên và nguồn công trình nước sạch). Ở đây mỗi gia đình có một bể chứa nước mưa bằng xi măng được Nhà nước đầu tư từ trước những năm 2018, đây là vật dụng trữ nước duy nhất để dùng làm nước ăn, uống cho người và vật nuôi. Tất cả mọi người đều phải sử dụng nước một cách tiết kiệm, nhưng như thế vẫn là không đủ để có nước dùng quanh năm. Đó cũng chính là lý do dẫn tới việc người dân không có nước để tắm và giặt quần áo, đặc biệt giặt trẻ em.
Mọi người chỉ có thể tắm giặt thoải mái vào mùa mưa (hoặc tắm mưa), chứ các mùa khác thì không dám dùng vì bể chứa chỉ cho phép dùng làm nước ăn. Những gia đình nào dùng nước tiết kiệm, chăn nuôi ít thì được khoảng 10 tháng trong năm có nước ăn uống, còn lại thường thì thiếu nước khoảng 2 - 4 tháng. Khi hết nước ăn thì phải đi khoảng 5 - 6km gánh nước, hoặc đi xe máy để chở để từng can nước về dùng.
Nam thanh niên tên Chảo Lá Ú (sinh năm 1997)là người mới tách hộ được hơn 4 năm nay sau khi lấy vợ. Gia đình Ú thiệt thòi hơn các hộ dân khác vì nhà không có bể chứa nước, do tách hộ sau thời điểm có dự án hỗ trợ của Nhà nước. Vì vậy bình thường Ú phải xin bố mẹ, anh em để có nước ăn hàng ngày. Nhưng từ tháng 10 trở đi, bắt đầu vào mùa khô thì không ai cho nữa, phải đi xa để lấy nước về dùng.
Chảo Lá Ú cũng không nhớ nổi lần gần nhất mình tắm là bao giờ, chỉ nhớ là tắm khi trời có mưa. Vợ con Ú cũng vậy, vì nước để ăn hàng ngày còn không có, thì lấy đâu ra nước để mà tắm, giặt. Mong ước lớn nhất của cả nhà Ú đó là được Nhà nước hỗ trợ làm một cái bể chứa nước giống như những nhà khác trong bản.
Một gia đình trẻ khác cũng sống trong điều kiện tương tự là anh Chảo A Nảy (sinh năm 1997). Nảy tâm sự rằng, là người sinh ra và lớn lên ở Cà Lò, nên chỉ biết chấp nhận cuộc sống như vậy thôi, cũng không nghĩ ra cách gì khác hay chuyển đi nơi khác được. Mong muốn của Nảy là bản làng được Nhà nước quan tâm đầu tư hơn, để người dân bớt đi phần nào khổ cực.
Không còn đói, nhưng cái nghèo vẫn đeo bám cả bản
Hiện nay cả bản Cà Lò có 34 hộ dân, nhưng có 6 hộ không có bể chứa nước, do tách hộ sau năm 2017, tức sau thời điểm có dự án Nhà nước đầu tư. Cơ bản các hộ dân đã không còn thiếu đói như trước, do có ngô dự trữ để ăn quanh năm, ngày lễ tết có thịt lợn, thịt bò ăn do các gia đình tự nuôi. Nhưng việc thiếu nước sinh hoạt, nước sản xuất là khó khăn lớn nhất của người dân. Đó là lý do chính khiến 100% hộ dân ở Cà Lò là hộ nghèo.
Theo như chia sẻ của Trưởng bản Chảo Vần Sang, các cơ quan chuyên môn của huyện Bảo Lạc và của tỉnh Cao Bằng đến đây nhiều lần để khảo sát làm nước sạch, làm hồ chứa nước nhưng cũng phải bó tay vì nơi đây là vùng núi đá, có độ dốc lớn nên không có nguồn nước chảy ra. Bà con đành phải thích nghi với cuộc sống thiếu sinh hoạt và nước sản xuất.
Không chỉ có thiếu nước sinh hoạt, nguồn nước sản xuất ở Cà Lò cũng là thứ xa xỉ. Tất cả việc sản xuất của bà con đều phụ thuộc vào thời tiết, vào “ông trời” cho mưa thuận gió hòa. Loại cây trồng phù hợp nhất ở đây là cây ngô, có thể chống chịu được khô hạn tốt nhất.
Để trồng được ngô cũng không phải đơn giản ở Cà Lò, do nơi đây có địa hình toàn là núi đá có độ dốc lớn, vì vậy dân bản phải đi tới những lũng đất cách xa bản tới 6 - 7km, nơi có có độ ẩm phù hợp để cây ngô có thể sống được. Các lũng đất này giáp với biên giới Trung Quốc, để đến được đây canh tác và thu hoạch cũng rất gian nan, người dân phải đi bộ băng qua núi rừng.
Giống như người dân bản, phân trường tiểu học và mầm non Cà Lò cũng rơi vào tình trạng thiếu nước như vậy. Tại đây, 3 cô giáo đang làm việc, sinh hoạt hàng ngày cũng chỉ dựa vào 3 téc có dung tích hơn 1m3 đựng nước mưa để dùng cho cả năm. Đó còn là nguồn nước được dùng cho sinh hoạt hàng ngày và nấu ăn cho gần 40 học trò.
Bước vào một lớp học rộng khoảng 15m2 ở phân trường Cà Lò, với 14 học sinh, xộc lên mùi đặc trưng của những cơ thể lâu ngày không tắm rửa, quần áo cáu bẩn không bao giờ giặt của các cháu. Các cô giáo thì quen rồi, nhưng với những người lạ như chúng tôi thì cảm thấy ngạt thở.
Một cô giáo chia sẻ rằng: Bọn em quen rồi, vì biết ở Cà Lò làm gì có nước mà tắm, giặt như ở vùng dưới được. Anh nhìn quần áo của các cháu là thấy, nhiều bé cũng chẳng có nhiều quần áo mà thay. Có cháu ngày nào cũng mặc một cái áo, đến lúc bị rách, bị đứt hết cúc, hỏng không mặc được thì bỏ đi. Thương các cháu, nên chỉ cố gắng dạy các cháu biết chữ, để sau có cuộc sống khá hơn thôi.
Ông Triệu Văn Khánh, Chủ tịch UBND xã Khánh Xuân, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng thông tin: Những xóm, bản ở vùng biên luôn được Nhà nước quan tâm đầu tư, nhưng nguồn lực của huyện, của tỉnh có hạn nên chưa đầu tư đồng bộ về hạ tầng được. Về vấn đề thiếu nước sinh hoạt, nước sản xuất ở những bản làng như ở Cà Lò đã được các cơ quan chuyên rất quan tâm nhưng chưa có hướng giải quyết, chỉ có thể khắc phục tạm thời bằng việc hỗ trợ làm các bể chứa nước sinh hoạt cho bà con. Phương án làm hồ treo cũng được tính đến, nhưng không có vị trí thuận lợi để làm, nhưng nếu có đầu tư thì kinh phí rất lớn mà hiệu quả lại không cao, thậm chí gây lãng phí tiền ngân sách.