Trong 2 ngày 24 và 25/12/2018, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị lần lượt tiếp nhận 3 bệnh nhân là Lê Văn X, 64 tuổi; Nguyễn Văn N, 47 tuổi và Lê Văn T, 24 tuổi đều thường trú tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đều có các triệu chứng ngộ độc methanol sau khi uống rượu.
Ảnh minh họa |
Các bệnh nhân đều có triệu chứng ban đầu là đau bụng, buồn nôn, nôn mửa, đau đầu, mệt mỏi, sau đó vật vã kích thích, hôn mê, rối loạn hô hấp, suy hô hấp, thở yếu, suy tuần hoàn, nhìn mờ và được chẩn đoán theo dõi ngộ độc Methanol. Riêng trường hợp bệnh nhân Nguyễn Văn N có hàm lượng Methanol trong máu là 2.100 mg/lít, vượt hơn 10 lần ngưỡng gây ngộ độc.
Bệnh viện đã tiến hành xử trí theo phác đồ điều trị ngộ độc Methanol của Bộ Y tế, kiểm soát đường thở, hỗ trợ hô hấp, hỗ trợ tuần hoàn và lọc máu cấp cứu để thải độc Methanol. Bên cạnh đó, trong quá trình lọc máu thải độc, các bác sĩ đã sử dụng các biện pháp hỗ trợ khác, một trong số đó là truyền bia (có Ethanol) vào dạ dày qua ống thông. Sau 9 ngày điều trị, bệnh nhân bình phục hoàn toàn và xuất viện ngày 2/1/2019.
Sự việc trên khiến nhiều người lầm tưởng khi say rượu có thể tiếp tục uống bia để giải rượu. Tuy nhiên, Bộ Y tế cảnh báo người dân tuyệt đối không được tự ý sử dụng bia để giải ngộ độc do uống rượu, bia gây ra, không phải cứ uống bia vào là giải độc được rượu; nếu đã ngộ độc Ethanol (có trong rượu, bia) mà vẫn tiếp tục uống rượu, bia (có Ethanol) thì mức độ ngộ độc càng nghiêm trọng.
Theo hướng dẫn xử trí ngộ độc Methanol của Bộ Y tế, lọc máu cấp cứu là biện pháp quan trọng hàng đầu và quyết định việc đào thải Methanol ra khỏi cơ thể người bệnh. Ngoài ra, trong quá trình lọc máu thải độc, Ethanol cũng có thể được sử dụng theo đường tiêu hóa để tranh chấp chuyển hóa với Methanol có trong máu.
Tuy nhiên, biện pháp hỗ trợ này chỉ có thể tạm thời trì hoãn việc chuyển hóa Methanol thành các độc chất (axit formic và format) gây hại cho người bệnh và phải được thực hiện, theo dõi sát tại cơ sở y tế có đủ điều kiện, theo hướng dẫn chuyên môn và chỉ định của bác sĩ.
Bộ Y tế khuyến cáo: Sử dụng rượu, bia có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, người dân nên hạn chế sử dụng rượu, bia. Khi nghi ngờ có dấu hiệu ngộ độc do uống rượu, bia thì phải đến ngay cơ sở y tế để được xử trí, điều trị kịp thời.
“Tuyệt đối không được tự ý sử dụng bia để giải ngộ độc do uống rượu, bia gây ra, không phải cứ uống bia vào là giải độc được rượu; nếu đã ngộ độc Ethanol (có trong rượu, bia) mà vẫn tiếp tục uống rượu, bia (có Ethanol) thì mức độ ngộ độc càng nghiêm trọng”, ông Nguyễn Trọng Khoa, Phó cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y tế nhấn mạnh.
Bác sỹ Nguyễn Trung Nguyên, Phụ trách Trung tâm Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai cho biết thêm, bác sỹ có nhiều biện pháp cấp cứu hồi sức, dùng thuốc giải độc, lọc máu để thải độc, cân bằng trong cơ thể. Ethanol là truyền tĩnh mạch trong y tế, nhưng ta chưa làm được còn ethanol dạng uống nhưng để an toàn phải tính toán liều lượng, cách dùng, có chuyên môn, giám sát. Đặc biệt, người dân không bắt chước, không tự ý dùng tại nhà.
Dù hoan nghênh sáng kiến của BV Đa khoa Quảng Trị đã áp dụng an toàn vì tính được liều lượng, tuy nhiên, Bộ Y tế khẳng định đây là hỗ trợ chứ không phải biện pháp chính, không phải ưu tiên số một. “Phương pháp chính vẫn là lọc máu, loại methanol ra khỏi cơ thể”, ông Nguyễn Trọng Khoa nói.
Bộ Y tế cũng khuyến cáo người dân tuyệt đối không sử dụng rượu, bia không rõ nguồn gốc, rượu, bia giả vì các loại rượu, bia này có thể chứa Methanol. Methanol là chất cồn thường dùng trong công nghiệp, bị nghiêm cấm sử dụng trong pha chế, sản xuất rượu, thực phẩm. Methanol khi vào cơ thể chuyển hóa thành chất gây độc lên hệ thần kinh, gây tổn thương não, tổn thương võng mạc dẫn đến mù lòa, nặng hơn là suy đa phủ tạng và tử vong.
“Chất cồn có trong rượu, bia phải là cồn thực phẩm (Ethanol) đạt chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Tuy nhiên, Ethanol cũng là chất có nguy cơ gây ngộ độc, có thể gây hôn mê, suy hô hấp và tử vong nếu uống rượu, bia nhiều. Ngoài ra, ở mức độ dung nạp khác nhau, Ethanol gây tổn thương đến nhiều cơ quan, chức năng của cơ thể như: Gây ung thư (gan, khoang miệng, họng, thanh quản, thực quản, tuỵ, thận, đại - trực tràng, vú); gây rối loạn tâm thần kinh; bệnh tim mạch; bệnh tiêu hóa; ảnh hưởng tới chất lượng giống nòi và phát triển bào thai”, BS. Nguyễn Trung Nguyên nhấn mạnh. |