| Hotline: 0983.970.780

Nguy cơ xóa sổ vùng sắn Văn Yên: [Bài 4] Xây dựng chuỗi liên kết bền vững

Thứ Bảy 01/03/2025 , 15:49 (GMT+7)

Tỉnh Yên Bái đang tích cực hỗ trợ nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong canh tác sắn nhằm nâng cao năng suất và sản lượng để duy trì vùng nguyên liệu.

Yên Bái là tỉnh có vùng nguyên liệu sắn lớn ở khu vực miền núi phía Bắc. Ảnh: Thanh Tiến.

Yên Bái là tỉnh có vùng nguyên liệu sắn lớn ở khu vực miền núi phía Bắc. Ảnh: Thanh Tiến.

Lợi thế vùng nguyên liệu lớn

Yên Bái là tỉnh miền núi, địa hình đồi núi dốc, điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng phù hợp với với cây sắn. Sau nhiều thập kỷ gắn bó, người dân tại các vùng chuyên canh sắn đã có kinh nghiệm trong canh tác. Hiện nay, tại một số huyện như Yên Bình, Văn Yên đã có nhà máy chế biến tinh bột sắn xuất khẩu, thuận lợi trong quy hoạch, phát triển vùng nguyên liệu.

Bài liên quan

Theo Sở Nông Nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái, sắn là một trong những cây trồng có diện tích, sản lượng và hiệu quả kinh tế khá. Nhiều năm qua, cây sắn được trồng tập trung chủ yếu ở các huyện Văn Yên, Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn... Thời điểm năm 2014, toàn tỉnh có gần 16.500ha sắn, đến năm 2024 giảm xuống còn gần 7.800ha, sản lượng hơn 154.000 tấn.

Ông Nguyễn Đức Điển, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái cho biết, các vùng được quy hoạch trồng sắn tập trung diện tích lớn phục vụ nguyên liệu cho 2 nhà máy chế biến tinh bột sắn tại huyện Văn Yên và Yên Bình. Các giống sắn được trồng chủ yếu là KM60, KM94 (giống chủ lực đã canh tác trên địa bàn trên 20 năm), KM95-3, SM937-26, NAI, SA, BK... Giống sắn cao sản chiếm trên 85% diện tích, còn lại các giống sắn bản địa phần lớn được trồng tại các huyện miền núi, các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, diện tích này thường cho năng suất và sản lượng thấp.

Nhiều diện tích sắn trồng ở Yên Bái cho năng suất, hàm lượng tinh bột thấp. Ảnh: Thanh Tiến.

Nhiều diện tích sắn trồng ở Yên Bái cho năng suất, hàm lượng tinh bột thấp. Ảnh: Thanh Tiến.

Bài liên quan

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có 2 doanh nghiệp chế biến sắn với công suất 150.000 tấn củ tươi/năm là Công ty Cổ phần Nông lâm sản, thực phẩm Yên Bái có công suất 100.000 tấn/năm và Công ty TNHH Thương mại - Đầu tư Yên Bình công suất 50.000 tấn/năm. Các nhà máy được xây dựng gắn với vùng nguyên liệu, dây chuyền sản xuất tinh bột sắn được nhập khẩu từ Trung Quốc và Hà Lan. Bên cạnh đó, vào thời kỳ cao điểm còn có hàng trăm lò sấy sắn thủ công và xưởng chế biến bột sắn quy mô nhỏ hoạt động.

Sản phẩm chế biến từ sắn gồm sắn lát khô, tinh bột và bã sắn. Tinh bột chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, các loại sắn lát khô, bã sắn khô tiêu thụ chính ở thị trường trong nước.

Diện tích giảm mạnh

Diện tích sắn của tỉnh Yên Bái liên tục giảm trong giai đoạn từ năm 2014 – 2024 (giảm gần 8.400ha, sản lượng giảm hơn 156.000 tấn) và hiện đang tiếp tục có xu hướng giảm trong những năm tới. Nguyên nhân chính là diện tích trồng sắn giảm bởi người dân chuyển sang một số cây trồng khác như quế, keo, tre Bát Độ, cây ăn quả... Ngoài ra, do sản xuất chuyên canh trên đất dốc nhiều năm, bộ giống cũ, sâu bệnh (đặc biệt là bệnh thối gốc, thối củ gây hại...) nên diện tích, năng suất, sản lượng, chất lượng sắn nguyên liệu cũng giảm nhanh.

Giá sắn bấp bênh là một trong những nguyên nhân làm nhiều hộ dân quay lưng với cây sắn. Ảnh: Thanh Tiến.

Giá sắn bấp bênh là một trong những nguyên nhân làm nhiều hộ dân quay lưng với cây sắn. Ảnh: Thanh Tiến.

Bài liên quan

Bên cạnh đó, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất, người chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu. Tình trạng bị ép giá, nhất là ở những xã vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn vẫn xảy ra. Có những thời điểm tiêu thụ khó khăn, giá sắn sụt giảm ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất làm biến động diện tích trồng sắn.

Hiện trên địa bàn tỉnh Yên Bái có nhiều cơ sở thu mua sắn để sản xuất bột ẩm tại chỗ và nhiều tư thương thu gom sắn bán ra ngoài tỉnh, giá thu mua lên xuống thất thường, không ổn định và khó kiểm soát. Bên cạnh đó, các nhà máy sắn đang phải chịu sức ép cạnh tranh với nhà máy sắn Tân An (tỉnh Lào Cai) và cạnh tranh nguyên liệu chế biến trực tiếp với các xưởng bột ẩm tại các xã Lâm Giang, An Bình, Đông An (huyện Văn Yên) nên càng thiếu nguyên liệu sản xuất.

Nhìn chung, hầu hết các địa phương trong vùng nguyên liệu sắn trong tỉnh Yên Bái do địa hình đồi núi cao, độ dốc lớn, giao thông khó khăn dẫn đến diện tích trồng nhỏ lẻ, phân tán. Do đó, việc áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất, thực hiện quy trình canh tác bền vững trên đất dốc... để tạo ra vùng nguyên liệu hàng hóa gặp không ít khó khăn.

Nhiều diện tích sắn hiện chưa thu hoạch nhưng cây quế đã được trồng thay thế. Ảnh: Thanh Tiến.

Nhiều diện tích sắn hiện chưa thu hoạch nhưng cây quế đã được trồng thay thế. Ảnh: Thanh Tiến.

Áp dụng tiến bộ kỹ thuật để duy trì 7.000ha sắn/năm

Trước thực trạng trên, thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái đã phối hợp với các đơn vị chức năng, các chuyên gia triển khai mô hình sản xuất sắn theo chuỗi nhằm nâng cao năng suất, giá trị, giúp nông dân yên tâm gắn bó lâu dài với cây sắn.

Điển hình như dự án “Phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm sắn gắn với canh tác bền vững trên đất dốc” do Trường Đại học Nông lâm (Đại học Thái Nguyên) chủ trì thực hiện tại huyện Văn Yên từ tháng 9/2019 - 12/2020 trên diện tích 200ha với sự tham gia của 157 hộ dân.

Dự án đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như sử dụng giống sắn BK và Sa 21-12 (giống sắn mới được Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu và phát triển Cây có củ thuộc Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm nghiên cứu và chọn tạo). Về kỹ thuật canh tác, áp dụng quy trình canh tác sắn bền vững, phù hợp về thời vụ, mật độ trồng, lượng phân bón và các biện pháp canh tác chống xói mòn đất.

Việc đưa giống sắn chống chịu sâu bệnh hại và nâng cao giá trị sản phẩm từ sắn là yếu tố then chốt để duy trì vùng nguyên liệu. Ảnh: Thanh Tiến.

Việc đưa giống sắn chống chịu sâu bệnh hại và nâng cao giá trị sản phẩm từ sắn là yếu tố then chốt để duy trì vùng nguyên liệu. Ảnh: Thanh Tiến.

Từ hiệu quả dự án, đã nhân rộng xây dựng vùng sản xuất sắn bền vững ở các xã An Bình, Mậu Đông, Đông Cuông, Lâm Giang và Châu Quế Thượng (huyện Văn Yên). Nhiều hộ dân đã đưa giống sắn BK và Sa 21-12 trồng đại trà, kết hợp sử dụng băng trồng cây cốt khí chống xói mòn, năng suất củ tươi đạt 47,5 tấn/ha, cao hơn 20 - 25 tấn so với năng suất giống sắn khác trồng tại địa phương.

Bên cạnh đó, đã xây dựng được 1 chuỗi liên kết trong sản xuất sắn bền vững tại huyện Văn Yên, thành lập 7 tổ hợp tác liên kết sản xuất sắn hoạt động theo quy chế và điều lệ, hỗ trợ ký kết hợp đồng với nhà máy sắn để bao tiêu sản phẩm.

Thời gian tới, Yên Bái sẽ quy hoạch vùng sản xuất tập trung gắn với nhà máy chế biến. Đầu tư, thâm canh và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác như giống, bảo vệ thực vật, canh tác bền vững trên đất dốc.... Có giải pháp giảm ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải trong chế biến sắn.

Mặt khác tăng cường thu hút đầu tư, mở rộng thị trường và đa dạng các sản phẩm chế biến từ sắn củ tươi, sắn lát khô, tinh bột... để nâng cao giá trị, thu nhập cho người sản xuất nguyên liệu và doanh nghiệp chế biến.

Ông Nguyễn Đức Điển, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Yên Bái cho biết thời gian tới, tỉnh sẽ xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện theo đề án phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, duy trì ổn định diện tích gieo trồng khoảng trên 7.000ha, sản lượng 150.000 tấn/năm.

Xem thêm
Nuôi ong hướng VietGAHP dưới tán Rừng tràm Trà Sư

AN GIANG Chi cục Chăn nuôi và Thú y An Giang triển khai mô hình nuôi ong hướng VietGAHP dưới tán rừng để giúp nông dân gia tăng thu nhập và hướng đến xuất khẩu mật ong.

Bắc Kạn xảy ra 5 ổ dịch tả lợn châu Phi

Từ đầu năm 2025 đến nay, tỉnh Bắc Kạn xảy ra 5 ổ dịch tả lợn châu Phi ở 12 hộ trên địa bàn 3 huyện, số lượng lợn mắc bệnh, tiêu hủy 66 con.

Tổ chức nghiên cứu khoa học được thành lập doanh nghiệp, thương mại hóa kết quả

Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19/2/2025 của Quốc hội quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ.

Bình luận mới nhất