Nữ họa sĩ Niayu tên thật là Trần Mỹ Ngọc, sinh năm 1997 tại An Giang. Nữ họa sĩ Niayu vừa tốt nghiệp khoa Thiết kế Đồ họa, trường Đại học Kiến trúc TP.HCM, và ra mắt công chúng bằng cuốn sách “Ký mộng” do Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành.
Nữ họa sĩ Niayu chia sẻ: “Tôi là họa sĩ thuộc gen Z. Tôi không tự nhận mình hiểu trọn con người Tố Như hay hiểu thơ ông một cách sâu sắc. Mà thực ra, ngay cả những người thế hệ tôi và trước tôi, nào ai dám tự nhận mình hiểu một tác giả lớn như Tố Như một cách cặn kẽ tường tận. Thế nhưng trong dòng chảy bền bỉ của tiếng Việt cũng như tự tình dân tộc là điều được ươm mầm và lớn lên một cách tự nhiên, thơ Tố Như vượt qua những rào cản của thời gian để chinh phục mọi thế hệ.
Đọc thơ của ông tôi luôn rung động từ trong sâu thẳm, bất kể khi tôi chú tâm nghiền ngẫm hay chỉ tình cờ đọc được câu thơ đơn lẻ ở một nơi nào. Và như thế là tôi vẽ. Không hẳn vẽ các nhân vật của Tố Như, mà là vẽ tâm hồn Tố Như. Vẽ Tố Như trong tôi, qua những bài thơ, đoạn thơ mà tôi đọc, tìm và cảm nhận được. Đấy là Tố Như của tôi. Là những rung động và tình cảm của riêng tôi dành cho người – thơ ấy”.
“Ký mộng” (Ghi lại giấc mơ) là một bài thơ của Nguyễn Du (1766-1820) chất chứa tâm trạng: “Mộng lai cô đãng thanh/ Mộng khứ hàn phong xuy” (Mộng đến, đèn chợt tỏ/ Mộng đi, gió lạnh lùa). Bắt đầu từ “Ký mộng”, nữ họa sĩ Niayu mang màu sắc riêng mình vào thế giới thi ca Nguyễn Du bằng những nét vẽ cá tính.
Ba trăm năm sau ngày Nguyễn Du mất, hậu thế tôn vinh ông là đại thi hào dân tộc. Thế nhưng sinh thời, ông lại là người vô danh lạc loài trước thời đại của mình. Một người con chẳng có gia đình. Một kẻ sĩ không có cố hương. Một thân văn nhân ốm yếu, giận mình không thể cầm kiếm đoạt giang sơn: “Loạn thế nam nhi tu đối kiếm” (Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn). Giấc mộng phù Lê sớm tan thành mây khói. Trở lại quan trường nhà Nguyễn sau “mười năm gió bụi”, ông trải qua chuỗi ngày đầy dằn vặt và tự vấn trước khi mất bệnh ở tuổi năm mươi tư.
Giấc mộng là một chủ đề lớn trong thơ. Với Nguyễn Du, mộng và thực tuy hai mà một. Đi qua thực và mộng, nhà thơ đã ghi lại những chân dung con người và tinh thần thời đại, đồng thời gửi gắm thông điệp xuyên thời đại về kiếp nhân sinh, thể hiện tình yêu thương cao đẹp dành cho con người, vẫn còn nguyên giá trị nhân văn cho đến hôm nay.
Cái hùng tâm tráng chí, khát khao vẫy vùng của Nguyễn Du sớm bị cơn lốc lịch sử vùi dập. Bi kịch mồ côi, không gốc rễ, tình thân lại thêm vào phần tủi phận cho tâm hồn thi sĩ vốn dĩ mong manh. Nhưng chính nhờ thế, ở Nguyễn Du có sự đồng cảm sâu sắc với các thân phận đáng thương trong xã hội cũng như nhận thức về sự phai tàn sâu sắc vượt thời đại. Cái “tôi” trong những bài thơ trữ tình chính là cái “tôi” của nhà thơ. Song, nó không đơn thuần chỉ là tác giả, mà trở thành hình tượng văn học. Những cảm xúc được biểu đạt trong thơ rõ ràng là chuỗi cảm xúc nội tâm của bản thân Nguyễn Du, song nhà thơ đã lựa chọn những cảm xúc mang ý nghĩa khái quát, vừa phản ánh tâm hồn và những nỗi đau riêng ông, vừa phản ánh những vấn đề và nỗi khắc khoải của thời đại, thậm chí xuyên thời đại. Có thể nói, với riêng Nguyễn Du, nhân vật “tôi” dù hữu hình hay được giấu đi trong thơ, thì đó không đơn thuần chân dung của nhà thơ, mà đã vượt khỏi chính ông, để trở thành tiếng nói của thời đại, hay cao hơn nữa, tiếng nói của một người-thơ luôn quan sát và yêu thương con người đến tận cùng.
Từ nỗi đau cá nhân, Nguyễn Du nhìn rộng ra được nỗi đau của con người giữa thời đại, của thập loại chúng sinh. Vạn vật sinh diệt trong một chuỗi ngày hư thực, kiếp phù sinh như hình bào ảnh. Con người vùng vẫy mong cầu sống có ý nghĩa, có khi chưa kịp tỉnh mộng đã chết đi rồi. Muôn nghìn cách chết nhưng cũng qui về một chữ khổ. Cầu siêu cho người hay cầu siêu cho mộng, chỉ Nguyễn Du mới biết. Hay có lẽ là cả hai, vì mộng và thực có khác gì nhau. Cầu cho người cũng là cầu cho mình vậy.
Cuộc đời thi nhân phải chăng là đi xuyên qua một giấc mộng dài. Mang thiên chức thi nhân phải chăng là ghi lại từng cảnh từng chương của giấc mộng đó?
Những thi phẩm lớn hiếm khi kết thúc ở dấu chấm cuối cùng. Ngay cả khi tập thơ đã khép lại thì nhà thơ vẫn tiếp tục mở ra các khoảng không để chúng ta mường tượng hành trình sáng tạo của thi nhân và giấc mơ sáng tạo cho chính người thưởng thức. Với Truyện Kiều và các thi phẩm khác của Nguyễn Du, khả năng khơi mở dường như là vô tận cho các loại hình nghệ thuật như văn chương, âm nhạc, điện ảnh, đặc biệt là hội họa.
Mỗi truyện thơ, mỗi bài thơ hay đều có điểm cô đọng hay điểm ngời sáng, là nơi tập trung ý tưởng, hội tụ cảm xúc của toàn bài. Vượt lên các thao tác minh họa để có thể đạt tới tính độc lập cho tác phẩm, họa sĩ sẽ phải cảm thụ, nắm bắt và dày công đi sâu vào điểm sáng này, chuyển đổi dữ kiện, hình ảnh từ chất liệu ngôn ngữ từ sang chất liệu màu sắc và đường nét. Từng nét màu từng nét cọ vừa truyền tải tinh tế chất thơ lẫn hồn thơ, vừa thể hiện góc nhìn và sáng tạo của riêng họa sĩ. Sự cộng hưởng này trao cho người đọc có thểm trải nghiệm khác trong mạch xúc cảm: Điểm bật sáng của hội họa.
Nữ họa sĩ Niayu thổ lộ: “Dù tôi vẫn chẳng dám tin mình hiểu trọn vẹn Tố Như, nhưng tôi biết Tố Như khiến tôi hiểu rõ tâm hồn mình. Nữ họa sĩ Niayu đã minh họa sinh động những tác phẩm của Nguyễn Du như “Độc Tiểu Thanh ký”, “Dương Phi cố lý”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Long Thành cầm giả ca”... Và có lẽ đó cũng là cách hồi đáp “bất tri tam bách dư niên hậu/ thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.