| Hotline: 0983.970.780

Phải 'chốt cứng' diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hàng năm

Thứ Tư 18/03/2020 , 17:03 (GMT+7)

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh điều này trong hội nghị tổng kết 10 năm đề án An ninh lương thực Quốc gia đến năm 2020.

Thủ tướng cho rằng phải chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hàng năm. Ảnh: VGP.

Thủ tướng cho rằng phải chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hàng năm. Ảnh: VGP.

Thủ tướng cho rằng nông nghiệp nói chung, đặc biệt sản xuất lương thực của nước ta đã đạt nhiều thành tựu lớn, toàn diện sau khi thực hiện đề án An ninh lương thực (ANLT) Quốc gia đến năm 2020.

Từ một nước thiếu ăn, đến nay, bình quân lương thực đầu người của Việt Nam đạt 525 kg và là một trong những nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Việt Nam có loại gạo được bình chọn là ngon nhất thế giới.

Từ kết quả đó, Thủ tướng đề nghị các đại biểu thảo luận về các bài học, kinh nghiệm thành công. Thủ tướng cũng đề nghị các đại biểu mạnh dạn nói về các yếu kém của nông nghiệp nói chung, đặc biệt đối với ANLT nói riêng.

Phát biểu tại hội nghị, bà Bùi Thị Thanh Tâm, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc (Vinafood1) cho rằng, các công ty tư nhân tham gia thị trường với mục tiêu lợi nhuận, lúc nào có lợi thì họ mua, không có lợi thì họ dừng. Khi có biến động như tình hình vừa qua thì các công ty có thể găm hàng chờ giá lên cao.

"Trong khi đó, công ty lương thực của Nhà nước có chức năng được Chính phủ giao là lưu thông, bình ổn giá lương thực thì phải thực hiện nhiệm vụ này, có khi không lợi nhuận", Tổng Giám đốc Vinafood1 cho biết.

Trước nhu cầu gạo tăng cao sau khi xuất hiện ca nhiễm số 17, Tổng Công ty trong một ngày bán ra lượng gạo gấp 20-30 lần, có hộ đến mua 1-2 tạ để tích trữ mặc dù bình thường chỉ mua có 10 kg. Bà kiến nghị Chính phủ xem xét, nắm giữ một tỉ lệ cổ phần hợp lý khi cổ phần hóa để bảo đảm vai trò điều tiết, bình ổn khi cần thiết.

Trong khi đó, nguyên Bộ trưởng NN-PTNT Lê Huy Ngọ cho rằng, cái được lớn nhất trong vấn đề ANLT là an dân, "không có gì khổ bằng phải chạy ăn từng bữa, làm sao kiếm được bữa nấu buổi chiều cho cả nhà".

Ông Ngọ cho rằng, từ ANLT mở toang cánh cửa để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển, đặc biệt là cánh cửa xuất khẩu mở rộng hơn nhiều.

Ông cũng góp ý thêm, bài học lớn nhất là gắn ANLT với chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, phát huy thế mạnh từng vùng, không chỉ lúa gạo mà cả các sản phẩm lương thực, thực phẩm khác, "chứ ANLT mà cứ loanh quanh bàn nhau làm lúa bao nhiêu, diện tích bao nhiêu, năng suất bao nhiêu là cần nhưng chưa đủ".

Liên quan ANLT, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình nêu rõ, những thành tựu này bây giờ vẫn là mong muốn, khát vọng của nhiều nước. Trong thời gian tới, tình hình có nhiều thay đổi, cần có cách nhìn mới hơn, thay đổi về chất đối với vấn đề này.

Cơ cấu tiêu dùng lương thực, thực phẩm cũng khác xưa, trước đây ăn 5-6 bát cơm một bữa mà không thấy no là bởi không có thực phẩm, không có đủ dinh dưỡng, nhưng nay với 10 kg gạo có nhà ăn cả tháng không hết.

Ông Bình cho rằng, phải có cách nhìn mới về vấn đề này, phải gắn với ứng phó biến đổi khí hậu, phát huy lợi thế so sánh quốc gia, mỗi vùng, mỗi tỉnh để có quy hoạch sản xuất, chỗ nào trồng lúa và trồng bao nhiêu là vừa để bảo đảm ANLT, còn chuyển sang cây trồng vật nuôi khác có giá trị gia tăng cao hơn để đáp ứng yêu cầu người dân.

Phải "chốt cứng" diện tích và sản lượng lúa

Thủ tướng chủ trì hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020. Ảnh: VGP.

Thủ tướng chủ trì hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020. Ảnh: VGP.

Sau khi nghe các địa phương, doanh nghiệp và các chuyên gia đóng góp ý kiến, Thủ tướng cho rằng, chúng ta đã có được hệ thống sản xuất tăng trưởng nhanh, ổn định, đa dạng, tạo ra lượng lương thực thực phẩm cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Không chỉ đủ ăn, Việt Nam đã tập trung tái cơ cấu nông nghiệp, phát huy lợi thế để tăng cường xuất khẩu, trong bối cảnh có nhiều khó khăn nhưng năm 2019 xuất khẩu nông sản vẫn đạt trên 40 tỷ USD, trong đó nhóm gạo xuất khẩu luôn ổn định, có tỷ lệ tốt.

Bên cạnh đó, công tác khoa học, nghiên cứu, năng lực ứng phó với thiên tai cũng có nhiều tiến bộ. Từ đó đưa ra những loại giống mới, phương táp tưới mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện hiện nay.

Thủ tướng cũng lưu ý, đi đôi với tăng cường năng lực sản xuất và việc phát triển bền vững, tăng cường an sinh xã hội, trong đó có những chính sách với người có công, người nghèo với phương châm quan tâm đến toàn xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, không để ai bị đứt bữa.

Hàng năm, Chính phủ cấp phát khoảng 200.000 tấn gạo, hỗ trợ cho những người chịu ảnh hưởng của thiên tai, người nghèo và gia đình chính sách.

Ngoài các thành công nói trên, Thủ tướng cũng chỉ ra một số tồn tại, bất cập cần khắc phục như liên kết sản xuất chuỗi gắn với vùng sản xuất, chế biến, tổ chức thị trường nhìn chung trên tất cả các ngành hàng còn yếu. Năng suất lao động trong nông nghiệp còn thấp do sản xuất quy mô nhỏ, manh mún. Ứng dụng cơ giới hóa, tự động hóa đạt tỉ lệ thấp, làm cho giá thành cao, khó cạnh tranh.

Nhắc đến ý kiến của lãnh đạo Vinafood1, Thủ tướng cho rằng, quan điểm cổ phần hóa DNNN là đúng để huy động các nguồn lực, nâng cao hiệu quả hoạt động nhưng các khâu quan trọng, Nhà nước vẫn phải nắm để điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Huy động nguồn lực toàn xã hội nhưng những “quả đấm then chốt” Nhà nước phải nắm để nâng cao năng lực ứng phó khi có biến động.

Thủ tướng nhấn mạnh, phải bảo đảm ANLT một cách vững chắc trong mọi tình huống, "qua một số ngày lộn xộn vừa rồi, có thể thấy có tiền chưa chắc mua được lương thực".

"Theo tôi, phải chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hằng năm và tăng cường khả năng dự trữ", người đứng đầu Chính phủ nhận định, không chạy theo thị trường và nêu cao tinh thần tự cường, chủ động đối với ANLT. Chuyển nhận thức phát triển nông nghiệp từ vai trò an sinh, đủ ăn, điểm tựa cho sự phát triển thành vai trò mới, là một lợi thế đặc thù, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế, hội nhập.

Thủ tướng nhấn mạnh một số mục tiêu quan trọng để phấn đấu đạt được. Đó là đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng, cơ cấu thực phẩm hợp lý, khoa học trong từng giai đoạn, kể cả lượng và chất, ít nhất cho quy mô 104 triệu người vào năm 2030, để chống tình trạng thấp, bé, còi của người Việt Nam.

Theo đó, cần tăng nhanh sản lượng sữa từ 1 triệu tấn lên 3 triệu tấn đến năm 2030 vì đây là loại thực phẩm góp phần cải thiện sức khỏe, tầm vóc giống nòi. Chúng ta tăng nhanh sản lượng trứng, thịt đỏ, thịt gà, thủy sản, rau quả có lợi cho sức khỏe và phù hợp với cơ cấu dinh dưỡng.

Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, trong 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc đảm bảo An ninh lương thực (ANLT) Quốc gia, đưa sản lượng lúa từ hơn 39 triệu tấn lên hơn 43 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người từ 497 kg/năm lên 525 kg/năm.

Từ 2009-2019, Việt Nam đã vào nhóm 6 nước hàng đầu thế giới về bình quân lương thực đầu người và nâng cao vai trò của nước ta trong hỗ trợ ANLT cho các quốc gia khác.

So với mục tiêu đến năm 2020 mà đề án đề ra, chúng ta có 14 chỉ tiêu đạt và vượt, trong đó có 3 chỉ tiêu về lúa gạo, 2 chỉ tiêu rau, 2 chỉ tiêu cây ăn quả, 2 chỉ tiêu chăn nuôi, 3 chỉ tiêu thủy sản và 2 chỉ tiêu đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực.

Cụ thể, Việt Nam đã có đủ nguồn cung lương thực đa dạng, phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng. Trong đó, phát triển sản xuất lương thực thực phẩm hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn, nhờ đó cải thiện đáng kể tình trạng thiếu dinh dưỡng, từ 18,2% trong giai đoạn 2004-2006 xuống còn 10,8% hiện nay.

Thời gian qua, chúng ta cũng đảm bảo được tính sẵn có và ổn định lương thực. Việt Nam đã chú trọng quy hoạch đất trồng lương thực, chủ yếu là lúa nhằm đảm bảo khả năng tự cung, từ đảm bảo ANLT đến xuất khẩu từ 5-7 triệu tấn gạo mỗi năm.

Nhờ hệ thống thông tin, giao thông và phân phối được mở rộng, hiện đại hóa và thu nhập người dân nông thôn tăng 4,3 lần giúp cải thiện rõ rệt khả năng tiếp cận lương thực.

Bên cạnh đó, cân đối dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của người Việt cũng có nhiều cải thiện. Trong đó, lượng gạo ăn giảm từ 132 kg/người năm 2008 xuống 96,6 kg/người năm 2018 và tăng lượng thịt từ 17 kg lên 26 kg/người/năm.

Xem thêm
Thái Nguyên thông qua nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã 2023-2025

Đây là 1 trong 10 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại Kỳ họp thứ 18 của HĐND tỉnh Thái Nguyên khóa XIV, nhiệm kỳ 2021-2026.

Syngenta tập huấn kỹ thuật, sử dụng drone an toàn, hiệu quả tại ĐBSCL

Vĩnh Long Ngày 26/4, tại Vĩnh Long, Công ty TNHH Syngenta Việt Nam tổ chức tập huấn cho 230 người điều khiển máy bay phun thuốc BVTV, cách sử dụng an toàn và hiệu quả tại ĐBSCL.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Kỷ lục 120 món ăn chế biến từ sâm dây tại núi rừng Ngọc Linh

Tại núi rừng Ngọc Linh (huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum) đã chứng kiến các đầu bếp chế biến 120 món ăn từ sâm dây và được xác lập kỷ lục Việt Nam.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm