Kỹ thuật phẫu thuật tim xâm lấn tối thiểu là kỹ thuật khó, lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam, đòi hỏi kinh nghiệm của phẫu thuật viên và rất nhiều trang thiết bị hỗ trợ.
Được biết, trường hợp đầu tiên là bệnh nhân nam N.V.T. (67 tuổi) nhập viện với chẩn đoán hẹp van động mạch chủ, van động mạch chủ hai mảnh, phình động mạch chủ ngực lên đường kính 53mm.
Trường hợp thứ hai là nữ bệnh nhân N.T.N. (66 tuổi), nhập viện trong tình trạng hẹp nặng van động mạch chủ, van động mạch chủ 3 mảnh, phình động mạch chủ ngực lên đường kính 45mm.
Cả hai đều được ê-kíp bác sĩ khoa Hồi sức – Phẫu thuật tim Bệnh viện Chợ Rẫy phẫu thuật bằng phương pháp thay van động mạch chủ sinh học. Ông T. được thay van động mạch chủ sinh học số 25, thay đoạn lên và một phần quai động mạch chủ bằng ống ghép nhân tạo số 26 qua đường mở ngực bên phải. Còn bà N. thay van động mạch chủ sinh học số 21, thay động mạch chủ ngực lên bằng ống ghép nhân tạo số 24.
Thời gian phẫu thuật trung bình của hai bệnh nhân khoảng 6 giờ, thời gian thở máy sau phẫu thuật của bệnh nhân trung bình là 12 giờ, thời gian nằm trong hồi sức cấp cứu trung bình khoảng 18 giờ…
Theo PGS.TS Trần Quyết Tiến, Phó Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy, Giám đốc Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Chợ Rẫy, trong 50 năm qua, phẫu thuật tim là bước tiến đột phá, đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân có bệnh lý tim mạch. Các kỹ thuật này được cải tiến và hoàn thiện dần qua từng năm. Trong đó, mục tiêu an toàn và khỏi bệnh triệt để luôn được các bác sĩ đặt lên hàng đầu.
Hiện nay, có bốn kỹ thuật phẫu thuật tim chính: Kinh điển và phổ biến nhất là mổ hở chẻ đôi toàn bộ xương ức (dài khoảng 20 cm); thứ hai là chẻ một phần trên xương ức; thứ ba là mổ hở đường nhỏ giữa xương sườn, kết hợp với nội soi và cuối cùng là mổ nội soi (kỹ thuật bậc cao, chưa có nhiều nước triển khai được).
“Phương pháp mới này là một trong những tiến bộ của ngành phẫu thuật tim. Bởi trước đây, với những trường hợp tương tự, bệnh nhân phải được xẻ xương ức và trải qua tối thiểu sau 6 tháng mới có thể thực hiện những động tác như dang tay, lái xe. Bên cạnh đó, một vài bệnh nhân còn đối mặt với nguy cơ nhiễm trùng xương ức”, PGS.TS Trần Quyết Tiến cho hay.
BS.CKII Nguyễn Thái An, Trưởng khoa Hồi sức - Phẫu thuật tim Bệnh viện Chợ Rẫy chia sẻ, về mặt thẩm mỹ, các đường mổ kinh điển trước đây là những đường mổ rạch da rất dài, trong khi đó phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu này chỉ thực hiện đường mổ rất ngắn, từ 5-6cm. Quan trọng hơn, đường mổ kinh điển là đường mổ cưa toàn bộ xương ức, đòi hỏi một thời gian dài để bệnh nhân hồi phục. Đường mổ càng dài thì sẽ càng khiến bệnh nhân mất nhiều máu.
Vì thế, với đường mổ nhỏ và chỉ rạch qua gân, cơ và không gây tổn hại xương như trong kỹ thuật này, bệnh nhân sẽ mất máu rất ít và rút ngắn thời gian hồi phục.
“Hiện chúng tôi đã trải qua nhiều bước tiến trong phẫu thuật, tự tin cải tiến, áp dụng những kỹ thuật mới để cải thiện sức khỏe của bệnh nhân sau phẫu thuật”, BS.CKII Nguyễn Thái An nói.
Hiện hai bệnh nhân đều hồi phục tốt và xuất viện trong tình trạng ổn định. Tái khám sau một tháng phẫu thuật, hai bệnh nhân đều khỏe mạnh và đã trở lại với cuộc sống bình thường.