Tại Diễn đàn “Nâng cao hiệu quả thông tin, cảnh báo, đảm bảo vận hành an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới”, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Thủy lợi thông tin, hiện nay cả nước có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi (592 đập dâng, hơn 6.700 hồ chứa) với tổng dung tích trữ khoảng 15,2 tỷ m3. Các đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT được giao quản lý 4 hồ chứa quan trọng đặc biệt và 1 hồ liên tỉnh. 8 hồ chứa thủy lợi liên tỉnh còn lại Bộ phân cấp cho các địa phương quản lý.
Tại các địa phương quản lý hơn 6.700 hồ. 63 đơn vị cấp tỉnh quản lý kỹ thuật (QLKT) hơn 2.300 hồ chứa lớn, vừa và nhỏ (chiếm 34%). Các đơn vị cấp huyện, xã QLKT hơn 4.200 hồ chứa (trong đó 64% là hồ nhỏ).
Về lòng hồ và vùng hạ du đập, nhiều hồ chứa chỉ giải phóng mặt bằng (GPMB) lòng hồ đến cao trình mực nước dân bình thường (MNDBT), chưa GPMB đến cao trình mực nước lũ thiết kế (MNLTK). Nhiều vụ vi phạm như xây nhà, trồng cây… làm giảm không gian chứa và khả năng thoát lũ của một số hồ chứa lớn như hồ Núi Cốc, Vực Mấu, Ayun Hạ, La Ring, Dầu Tiếng... Hoạt động dân sinh diễn ra trong khu vực lòng hồ tạo áp lực cho công tác vận hành hồ chứa.
Bên cạnh đó, về mặt pháp lý, các hồ chứa thuỷ lợi phải được vận hành theo quy trình vận hành (QTVH) được lập, phê duyệt, công bố công khai theo quy định. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có 28% số hồ được lập QTVH (gồm 213 hồ tràn có cửa van điều tiết và 1.600 hồ mà tràn xả lũ là tràn tự do). Việc vận hành theo QTVH hiện nay chủ yếu căn cứ vào các yếu tố thời tiết dự báo (mưa dự báo), do thiếu các thiết bị đo mưa trên lưu vực hồ chứa.
Một số nhiệm vụ thực hiện còn hạn chế do chưa có đủ kinh phí, tập trung ở nhóm hồ vừa và nhỏ như: phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp 28%; kiểm định an toàn 9%; QTVH 28%; lắp đặt thiết bị quan trắc KTTV chuyên dụng 17%; lắp đặt thiết bị và quan trắc công trình 10%; bảo trì sửa chữa nâng cấp 27%; xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du 5%.
Ngoài ra, theo QCVN 04-05:2022, lòng hồ là vùng được xác định từ ranh giới giải phóng mặt bằng trở xuống của dự án hồ chứa nước. Theo quy định tại Nghị định số 129/2017/NĐ-CP thì đất gắn với lòng hồ là tài sản kết cấu hạ tầng thủy lợi. Điều này gây khó khăn trường hợp lòng hồ được xác định là vùng đất từ cao trình đỉnh đập trở xuống.
Trường hợp cần thăm dò, khai thác khoáng sản ở khu vực cấm hoạt động khoáng sản, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh quy hoạch khoáng sản có liên quan. Tuy nhiên, hiện nay nhiều địa phương chưa điều chỉnh quy hoạch khoáng sản để làm cơ sở cho việc thăm dò, khai thác khoáng sản trong lòng hồ chứa thuỷ lợi.
Về phát triển nuôi trồng thủy sản trong lòng hồ, ngoài việc thực hiện theo quy định pháp luật về thuỷ lợi, phải thực hiện theo quy định pháp luật khác như Luật Đất đai, Luật Quản lý tài sản công, Nghị định 129/2017/NĐ-CP, Nghị định số 96/2018/NĐ-CP... Tổ chức, cá nhân nuôi trồng thủy sản trong lòng hồ chứa thủy lợi do Nhà nước đầu tư vừa phải nộp tiền giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác vừa phải nộp tiền thuê đất cho Nhà nước. Do đó, cần nghiên cứu để thực hiện thống nhất, thuận lợi cho tổ chức, cá nhân sử dụng.
Đặc biệt, sau bão số 3, số hồ hư hỏng nặng tăng thêm 68 hồ. Công tác vận hành hồ chứa bộc lộ nhiều hạn chế như: một số QTVH được phê duyệt đến nay đã hơn 10 năm chưa được rà soát, điều chỉnh, bổ sung. Các hồ chứa mà lòng hồ có hoạt động dân sinh, hạ du bị ngập thì việc vận hành theo QTVH sẽ gặp nhiều khó khăn,.
Về quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng, giám sát vận hành hồ, 17% số hồ đã được lắp đặt thiết bị quan trắc KTTV chuyên dùng, thiết bị GSVH hồ chứa. Đây là các thiết bị hỗ trợ đắc lực cho công tác chỉ đạo, vận hành hồ theo QTVH được duyệt và theo diễn biến thực tế. Tuy nhiên, hiện nhiều hồ chứa lớn hiện chưa được lắp đặt đầy đủ thiết bị hoặc đã được lắp đặt nhưng bị hư hỏng.
Về tiêu chuẩn thiết kế đập, hồ chứa, trong khuôn khổ dự án WB, tuỳ theo số hộ dân bị đe doạ ở hạ du, 446 hồ chứa đã được thiết kế có tính đến tần suất lũ kiểm tra (0,1% ÷ 0,01%) được áp dụng theo thông lệ quốc tế, tuy nhiên cơ bản các hồ chứa thủy lợi chỉ được thiết kế theo quy chuẩn Việt Nam với tần suất phổ biến (1,0 ÷ 0,1%). Như vậy, với điều kiện mưa lũ cực đoan như hiện nay, các hồ chứa chưa được thiết kế với tần suất lũ theo thông lệ quốc tế sẽ có nguy cơ mất an toàn hồ đập cao hơn khi có lũ lớn, vượt tần suất thiết kế, tần suất kiểm tra.
Về hương án ứng phó khẩn cấp, có 17% số hồ được xây dựng phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp. Như vậy, các hồ chứa, đặc biệt hồ lớn, hạ du đông dân cư nếu không được xây dựng phương án, khi có tình huống sẽ rất bị động trong công tác ứng phó.