Thức quê ngày khó

Xuân Ba - Thứ Sáu, 17/03/2023 , 06:50 (GMT+7)

Thò lò mũi xanh ngồi trong căn nhà lá trống hoác nghe cô giảng bài có từ cơm, thịt, cá, thấy bụng óc ách cồn cào.

Những món ăn đồng quê. Ảnh minh họa.

Quê tôi, xứ trung du bán sơn địa tỉnh Thanh, thuở ấy chả hiểu sao đói triền miên.

Chết cái là trên giao cho chỉ tiêu phải trồng cây thuốc lá để làm nguyên liệu cho nhà máy thuốc lá. Nhà máy đặt ngay huyện nhà. Ban đầu có tên là Cẩm Lệ (một địa danh của tỉnh Quảng Nam kết nghĩa với Thanh Hóa). Sau đổi là nhà máy thuốc lá Thanh Hóa.

Làm chi có chuyện thuận mua vừa bán nguyên liệu (lá thuốc sấy khô) mà quy tất tật ra công điểm. Trăm điểm được mấy lạng thóc.

Cái giống thuốc lá, phải sấp mặt từ khi lật đất.

Lòng gan bàn chân rát bỏng trên những luống đất màu gan gà cày dối cày ẩu quánh như sắt nguội. Còng lưng quảy gánh nước từ đồng chiêm xa tưới cây thuốc lá. Những gáo nước hiếm hoi dội trên nền đất rắn cứng nghe cứ xèo xèo. Liên tằng vài tháng, bửng tưng nào bữa nào cũng phải tắm tưới.

Cây thuốc bén rễ đứng được thì cấp tập những bắt sâu làm cỏ tỉa nhánh. Mùa nắng rát mặt cũng là thời điểm thu hoạch. Hái, buộc tàu thuốc vào sào bằng cây vầu. Từ tinh mơ đến nửa đêm, mắt lúc nào cùng cay xè. Những cái lò sấy thuốc loại 4x6m, xây bằng gạch phá từ đình từ chùa sau những chiến dịch bài trừ mê tín dị đoan. Những lò sấy ngốn củi khiếp lắm.

Củi thì lấy trên đồi, xa hơn gần 10km lên rừng Thạch Thành chặt hạ cây bằng bắp chân. Cả một vùng dần dà sạch bách, đồi rồi rừng non, rừng già trụi lủi vì nạn liên miên nhiều năm trồng cây thuốc lá. Trời ơi, đất ấy cho dân trồng màu, trồng đỗ lạc sắn khoai thì đỡ biết mấy.

Nhưng cái thời ấy nó thế.

Nhà bảy tám miệng ăn, trông vào hạt thóc công điểm, sau Tết đã không còn gì bỏ vào nồi. Những bờ rau dại như rau sam rau má trẻ con nạo trụi thùi lũi.

Những buổi trưa vắng lạnh và đói rảo qua nhà thằng Ngọc.

Nhớ lâu nhớ khiếp đến bây giờ là cái nồi đồng to tướng mẹ Ngọc hấp sắn cùng củ dong riếng lẫn rau má mà nhoáng cái đã sạch bách. Cả nhà đứng lên mà cái nồi khốn khổ ấy còn bốc khói! (Sau này Ngọc vào bộ đội. Cái thư hắn viết cho tôi khoe là vào bộ đội sướng lắm. Sướng gì? Là được ăn no! Tội nghiệp Ngọc, hình như từ bé đến khi đi bộ đội chưa bữa nào được no? Bảy tháng sau, Ngọc hy sinh ở chiến trường Tây Nguyên).

Tháng ba ngày tám. Đó là cách nói văn chương. Tháng ba tháng tám là cữ đói nhất. Tôi nhớ đất năm phần trăm (5%) của mỗi hộ đều trồng khoai lang.

Trông mong vào củ thì xa ngái mà người ta chăm chắm vào cái lá khoai, cái đọt khoai. Nhưng lá lẫn đọt mọc chậm mà cái đói thì nhanh thì gấp. Nạn hái trộm lá khoai hoành hành. Bọn trẻ con kiêm thêm nhiệm vụ coi giữ đất 5%. Nhiều vụ đánh nhau toác đầu.

Cậu bé Huy Trụ người làng đen đủi quắt queo ngày ấy sau này thành nhà thơ nổi danh từng viết cái bài thơ mà tôi quên mất, đại ý rằng, thôi mẹ già, mẹ ốm mẹ chết thì cũng đành nhưng mẹ đừng mất vào cái hồi tháng ba đói vàng mắt!

Cây khế chua sau vườn nhà tôi trở thành điểm tụ hội mỗi trưa đi học về. Hội tụ là do đói. Đói mà dằn bụng bằng khế chua thì hơi khó? Nhưng bọn tôi đã có cách.

Không biết thằng nào nghĩ ra lấy vôi ăn giầu của bà quệt vào. Ăn chả chua tẹo nào. Vôi trung hòa a xít. Cứ thế, ngày này qua ngày khác rồi mùa khác, không biết đã tọng bao nhiêu là khế cùng vôi để lấp cái dạ dày trống rỗng ấy mà những đứa còn sót lại sau chiến tranh ai cũng bị bệnh dạ dày chả nặng thì nhẹ?

Những món ăn dân dã của đồng quê. Ảnh minh họa.

Tháng tám đồng nước trắng băng. Người lớn bó gối thườn thượt thở dài ngó ra. Nhưng chúng tôi hơi bị vui vì đã nghĩ ra cái ăn. Tất nhiên ngoài cua cá tép đánh dậm với đặt lờ. Nhưng có thứ còn chất lượng hơn. Mỗi đứa lăm lăm một cái nỏ nhỏ với bó tên tre.

Dân xứ trung du pha rừng như quê tôi đều thạo món nỏ. Nước lụt dâng chỉ đóng lưng chừng các gò đống. Trong đám cây khẳng khiu lúc lỉu những chuột tránh lụt. Cứ tách một phát là tõm rơi một chú chuột đồng béo ngậy. Tên ấy lại quay vòng tiếp.

Hết lượt một bó tên là một giỏ chuột nặng chịch. Đôi khi vớ được vài con rắn. Mà đâu phải rắn nước. Hổ mang hẳn hoi. Chả biết sợ là gì. Nhưng hạ được rắn phải là những thằng thiện xạ. Chuột ấy mang về thui rơm.

Không rửa nước. Sẽ tanh. Mỡ đâu mà quay mà rán? Đem hông lên như đồ xôi. Lấy hai thớt rải lá chanh ở giữa rồi ép chồng lên. Đánh món chuột đồ ép lá chanh chấm muối, người cứ gọi là lâng lâng.

Gần làng tôi có một cái làng rất lạ. Làng của các cụ miền Nam tập kết. Sau này lớn mới biết, tập kết ra Bắc đâu chỉ tuyền thanh thiếu nhi? Cỡ hơn 60 hoặc hơn cũng nhiều. Hai năm đợi tổng tuyển cử bỗng chốc thành thăm thẳm.

Trước mắt việc đi mãi/ trên đầu già tới rồi.

Phần việc nước nặng nhọc phần của trai tráng của trung niên. Các cụ chả biết đi đâu đành về cái xó trung du này lập làng. Thực chất đó là những trại an dưỡng dành cho cán bộ tập kết tuổi cao sức yếu. Làng toàn những người già với đàn ông thì buồn lắm! Đám bọn tôi thi thoảng ghé làng các cụ.

Ám lâu hơn là cái cảnh tuềnh toàng tạm bợ. Ăn xó mó niêu của những người già độc thân.

Nhưng trại của các cụ hấp dẫn bọn tôi lắm. Đầu tiên là cái ăn! Có bao nhiêu là cách để lấp cái dạ dày của lũ trai thau tháu luôn háu đói.

Không phải các cụ cho ăn mà nói theo thời thượng bây giờ là không cho cá mà cho cái cần câu. Các cụ bày cho cách ăn.

Bây giờ hơi bàng hoàng cái nỗi, những từ như nướng trui, nướng mọi là mãi sau này chường mặt lẫn chai mặt việc ăn nhậu phương Nam mới hay mới nhiễm. Nhưng từ những năm xa những năm đương còn là hai miền chia cắt, bọn tôi đã tường, đã rành.

Cái thứ cóc là cậu ông giời ai mà dám ăn? Thoạt tiên hãi lắm khi thấy một cụ móc đất sét phủ kín con cóc còn sống rồi ném nó vào đống than. Không phải một mà mấy chục con như cụ biểu là nướng mọi. Sợ chạy mất. Nhưng dần dà mùi thơm khủng khiếp của thứ nướng mọi đó lập tức triệu hồi các dạ dày lại.

Bọn tôi châu tuần quanh mấy tàu lá chuối tươi. Một cụ đập nhẹ những mảnh đất sét bọc ngoài giờ đã sắt lại như sành cho tã ra. Động thái đập nó cẩn trọng lắm. Bảo phải nhẹ phải cẩn thận vì cái gan cóc vỡ ra ăn phải thì có mà trời cứu.

Cóc chỉ lấy hai cái đùi chấm muối. Ngon không thể tả. Ngoài cóc, có thứ nướng trui, nướng mọi là thằn lằn. Chao ôi những con thằn lằn màu xanh đen ở quê tôi thuở ấy sao lắm thế?

Nhưng khó bắt. Các cụ lấy cho cái lồng đan bằng nứa cột mấy con châu chấu vào trong. Để qua đêm sáng ra lồng trĩu vài con béo lẳn. Sau này tôi không thể kiếm đâu ra cái món thằn lằn bọc đất sét nướng trui ấy.

Một dạo vùng tôi không hiểu sao phát sinh ra lắm ốc sên. Sáng ra thấy lển nghển đầy sân, vườn. Dân làng bắt bỏ vào vại nước giải cho thối dùng tưới rau.

Lại cũng các cụ bày cho lấy nước vôi loãng bỏ ốc sên vào cho nhả bớt nhớt. Luộc chỉ lấy miệng ốc. Lại bóp nước vôi loãng và lá bứa cho sạch nhớt. Tốn công một tý nhưng xào với khế. Thứ ấy đụng miệng hơi khó dừng!

Và nhái.

Thuở ấy mùa mưa, ếch hơi khó kiếm nhưng nhái có mà ràn rạt. Môi trường trong veo mà. Một lần qua trại thấy các cụ làm chả nhái. Lột da. Băm nhỏ với rau thơm với ớt. Viên bằng quả mận đem rán.

Không chỉ thơm suông mà còn đậm miệng vô cùng. Rồi cái quả ổi xanh? Làm chi? Làm chả. Ổi xanh phải chịu khó gọt vỏ giã cho nhuyễn. Không có thịt thì thay bằng ếch nhái băm nhỏ trộn đều. Có tí bột mỳ thì tuyệt. Đem rán lên. Điếc mũi xóm giềng.

Bây giờ môi sinh bị tàn phá cấm có thấy cái con niềng niễng. Cuối thu đầu đông, khu đồng chiêm mênh mông chia khoảng phân vùng cho những ai đơm trúm đó để lấy tép (những vò tép gạo - nhỉnh hơn tép riu - xứ Thanh muối nhuyễn từng là đồ tiến cho vua chúa nhà Nguyễn, sử nhà Nguyễn, sách “Đại Nam thực lục” có chép kỹ).

Tép thì ít nhưng có lắm lắm niềng niễng. Tả ra thì khó. Nhỉnh hơn ngón tay cái. Đen bóng. Chắc lẳn. Béo mầm. Hình như nó cùng loài với cà cuống giờ đâm tiệt chủng? Những rổ niễng đem nướng hoặc rang thơm xa hàng cây số. Bùi và đậm miệng. Sáng kiến xơi niễng lại cũng các cụ miền Nam bày.

Mùa bọ vừng là cả một sự hân hoan.

Cữ cuối tháng 4 âm lịch. Vừng sắp thu hoạch thì ở đâu cơ man nào là giống bọ vừng nần nẫn nhỉnh hơn đầu đũa túa về bám đen đặc lúc lỉu trên những nhành vừng.

Đêm xuống. Lần ra lấy tay tuốt nhẹ. Cứ là hàng vốc. Đem rang cái thứ trời cho ấy lên. Ai đã từng nếm hẳn giờ lại than bao giờ cho đến ngày xưa! Mà lạ giống ấy giờ cũng bặt hẳn?

Một thứ nữa cùng tiệt nòi là cái con đam mồi. Đam mồi, tiếng vùng tôi chỉ cái giống cua nhỏ hơn cua biển, to gấp đôi gấp ba cua đồng. Giống ấy màu trắng hoặc sắc đỏ. Cứ mùa mưa lại thấy lấp ló ở các cống rãnh.

Người vùng tôi kỵ bảo bẩn không ăn. Nhưng thấy các cụ ở làng miền Nam tập kết nướng hoặc hấp (đồ) lên ngó rất bổ béo bắt mắt thì nhiều người cũng bắt chước.

Về quê thi thoảng lại tạt qua chỗ làng các cụ miền Nam tập kết. Đã bình địa từ lâu ngôi làng trơ trọi khuất ở mé đồi. Những ngôi mộ của người bất đắc dĩ phải gửi nắm xương tàn nơi đất Bắc cũng đã được di dời đâu đó, chắc về quê? Ngày ấy tôi đâu có biết nghĩ rằng các cụ cũng... đói như mình!

Tôi có bà o xa. Người dơ dở. Muộn chồng. Tuổi bốn mấy người cứ quắt lại. Hình như lần mùa lạnh ấy cũng tò mò nương theo làn khói nướng cua… Run rủi thế nào, o kết được với một cụ quê ở Sa Đéc (Đồng Tháp). Cưới xin gì đâu. Chỉ cặp, quê gọi là dấm dúi đi lại với nhau. Nhưng thần tình, người ngợm o ngó bắt mắt hẳn lên. Miền Nam giải phóng 2 năm rồi cái cụ Sa Đéc đó nói là vô trỏng trước để thám thính tình hình… Nhưng mãi chả thấy cụ trở ra. O trở nên lẩn thẩn thật!

Tuổi già, những nỗi đêm Nam ngày Bắc vò võ gửi thân nơi xó núi này thương mến đám con nít đói lạnh vêu vao thì nghĩ ra thứ chi đó cho chúng vui mà mình cũng khuây khỏa?

Thuở ấy người lớn mắng lũ chúng tôi những là đồ ăn tro bọ trấu. Rằng đói cho sạch rách cho thơm. Nào là “Đói thì ăn rau mưng rau má/ Đừng ăn vất vả hư thân”.

Đã khuất núi hết rồi, các cụ miền Nam tập kết! Chắc các đấng chả thể nghĩ một ngày nào đó như thời nay, vào trật tuổi lũ chúng tôi hồi ấy, có một lớp hậu sinh chưa bao giờ bị đói bị nhịn bữa nào?

Và nhiều thứ trong thức quê thời khó ấy nay lại trở thành đặc sản. Rằng nướng trui nướng mọi là phương cách chế biến để tăng hương vị cùng dinh dưỡng của đồ ăn!

Cái câu của người xưa "dân dĩ thực vi thiên" (dân coi cái ăn như giời) hình như có trỏ, có nhắc về những ngày khó ấy?

Xuân Ba
Tin khác
Mạch nha Thi Phổ
Mạch nha Thi Phổ

Làng Thi Phổ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi sản xuất loại mạch nha thơm ngon nổi tiếng trong cả nước, gọi là 'mạch nha Thi Phổ'.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận
Tác phẩm Hồ Biểu Chánh vẫn được công chúng đón nhận

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh không chỉ được chuyển thể thành phim truyền hình và phim điện ảnh, mà còn liên tục tái bản với số lượng lớn để phục vụ độc giả.

Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư
Khảo cứu: Bài thơ 'Bán than' không phải của Trần Khánh Dư

Trong 'Quốc văn trích diễm', giáo sư Dương Quảng Hàm trích bài thơ 'Bán than' và cho là của Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả là người khác.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm đà cốt cách Nam bộ

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả được giải thưởng Hồ Chí Minh, được hậu sinh kỷ niệm 10 năm ông đi xa, bằng một hội thảo tổ chức tại TP.HCM sáng 6/12.

Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm
Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm

Trên bia đá đền thờ tổ nghề chạm bạc Đồng Xâm có tuổi đời gần 600 năm ghi dấu ấn tinh hoa làng nghề và những điều răn dạy con cháu giữ nghiêm phép nghề.

'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc
'Hưng Hóa kí lược' - Một cuốn toàn thư về đất và người Tây Bắc

Nội dung của 'Hưng Hóa kí lược' có 12 đề mục, bao gồm đầy đủ nội dung truyền thống của một cuốn địa chí.

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’
Nhà thơ Đinh Nho Tuấn đoạt giải nhất ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’

Nhà thơ Đinh Nho Tuấn với chùm thơ về vẻ đẹp đô thị năng động và bao dung, đã được trao giải nhất cuộc thi thơ ‘Nhân nghĩa đất phương Nam’ năm 2024.

Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh
Nhà thơ xứ Nghệ có nốt nhạc mùa trong ký ức xanh

Nhà thơ xứ Nghệ Trần Quang Khánh chắt chiu cảm xúc những ngày quân ngũ và những năm dạy học để gửi gắm vào vần điệu chân thành và sâu lắng.

Vẻ đẹp núi rừng qua trang văn của tác giả dân tộc Thái
Vẻ đẹp núi rừng qua trang văn của tác giả dân tộc Thái

Vẻ đẹp núi rừng ở miền tây xứ Nghệ được tác giả Hữu Vi phác họa sinh động và quyến rũ qua tập truyện ngắn ‘Cái chết của bầy ong’.

Nhà văn Sơn Nam đã có thêm một khách tri âm
Nhà văn Sơn Nam đã có thêm một khách tri âm

Nhà văn Sơn Nam đã được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu, và chuyên luận ‘Khí chất Nam Bộ qua truyện Sơn Nam’ chứng minh rằng ông có thêm một khách tri âm nữa.

Học giả Nguyễn Đình Tư lần thứ hai nhận Giải thưởng sách quốc gia
Học giả Nguyễn Đình Tư lần thứ hai nhận Giải thưởng sách quốc gia

Học giả Nguyễn Đình Tư ở tuổi 104 được trao giải A của Giải thưởng sách quốc gia 2024 với công trình nghiên cứu về lịch sử đô thị phương Nam.

Đào tạo tiếng Việt được quan tâm trên đất nước Triệu Voi
Đào tạo tiếng Việt được quan tâm trên đất nước Triệu Voi

Đào tạo tiếng Việt tại Lào có thêm một địa chỉ mới ở Viên Chăn, với sự phối hợp giữa Trường Đại học Cửu Long và Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục Lào.