| Hotline: 0983.970.780

Tìm hướng khai thác thế mạnh thủy sản

Thứ Bảy 29/03/2014 , 20:08 (GMT+7)

Đó là nội dung của Hội thảo khoa học “xúc tiến thương mại phát triển thủy sản bền vững vùng duyên hải miền Trung” diễn ra vào sáng 29/3 trong khuôn khổ Festival Thủy sản Việt Nam-Phú Yên 2014.

Thế mạnh chưa được khai thác hết

Thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Năm 2013, tổng sản lượng thủy sản đạt trên 6 triệu tấn, tăng gần 2,47 lần so với 2001. Hàng thủy sản của Việt Nam đã có mặt tại 165 quốc gia trên toàn thế giới, kim ngạch xuất khẩu 6,7 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản và chiếm 5,07% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngành thủy sản góp phẩn giải quyết công ăn việc làm cho 4 triệu lao động, đặc biệt góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước ta.

Đặc biệt, thủy sản là thế mạnh của 9 tỉnh vùng duyên hải  miền Trung (Thừa thiên Huế đến Bình Thuận), là vùng có ngư trường khai thác thủy sản rộng lớn, nhất là ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa. Trong vùng có nhiều vũng, vịnh, đầm phá… thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Nhờ thế mạnh này mà các tỉnh trong khu vực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.

Tính đến hết năm 2013, toàn vùng Duyên hải miền Trung có 46.201 tàu thuyền khai thác thủy sản, chiếm 39,49% số lượng tàu thuyền trong cả nước với tổng công suất 4 triệu CV (trong đó tàu công suất dưới 90CV là 34.918 chiếc và từ 90CV trở lên có 11.238 chiếc). Chủ yếu khai thác bằng nghề lưới kéo chiếm hơn 14,01%, lưới rê chiếm 28%, lưới vây chiếm 12%, nghề câu (trong đó có câu cá ngừ đại dương) chiếm 18%; 25% còn lại khai thác các nghề khác. Cơ cấu nghề khai thác có sự thay đổi so với năm 2005, nghề lưới rê chiếm tương đối cao do khai thác được các loại cá có giá trị kinh tế cao.

Cùng với năng lực tàu thuyền khai thác thủy sản tăng lên, lực lượng lao động làm việc trên các tàu thuyền cũng tăng theo. Hiện đã có hơn 2000 lao động làm việc trên các tàu thuyền. Tuy nhiên, phần đông các lao động này thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm… ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả khai thác.

Tại vùng duyên hải miền Trung, phương thức tổ chức khai thác thủy sản vẫn đang mang đặc thù của khai thác nhỏ, lẻ, manh mún, lạc hậu… Để khắc phục tình trạng trên, những năm qua các địa phương trong vùng đã xây dựng các mô hình tổ đội đoàn kết sản xuất trên biển, HTX nghề cá, nghiệp đoàn nghề cá…  Tính tới thời điểm này, toàn vùng có 41 cảng cá như Thuận An (Huế), Thọ Quang (Đà Nẵng), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Quy Nhơn (Bình Định)… và 192 cơ sở sửa chữa, đóng mới tàu thuyền. Cùng với khai thác, nuôi trồng thủy sản cũng là thế mạnh. Năm 2013, diện tích nuôi trồng toàn vùng đạt 33.778ha (tăng 3.366ha  so với năm 2008), sản lượng nuôi trồng đạt hơn 180 tấn.

Tuy nhiên, việc bảo quản, chế biến và xuất khẩu thủy sản vẫn còn là điểm yếu. Phần lớn tàu thuyền khai thác trong vùng có công suất nhỏ, thiếu thiết bị bảo quản sản phẩm; thêm vào đó dịch vụ hậu cần nghề cá chưa phát triển, một số cảng xuống cấp không có khu tiếp nhận, phân loại sản phẩm… làm cho thủy sản sau khi khai thác không đảm bảo chất lượng, chẳng những đã gây tổn thất lớn mà còn làm lãng phí nguồn lợi.

Hiện trong vùng đã có 132 DN chế biến thủy sản xuất khẩu quy mô công nghiệp, tuy nhiên nguồn nguyên liệu không ổn định, chất lượng khai thác sản phẩm không cao nên các DN chưa thể khai thác hết công suất.

Cách nào tháo gỡ

Như trên đã nói, ngành khai thác, bảo quản, chế biển thủy sản vùng duyên hải miền Trung còn nhiều khó khăn vướng mắc. Có nhiều ví dụ như: Đang rất lạc hậu về phương tiện đánh bắt; nguồn nhân lực trình độ thấp; dịch vụ hậu cần nghề cá chưa tương xứng; thiếu phương tiện, cơ sở vật chất hiện đại bảo quản sản phẩm sau đánh bắt; các mô hình tổ chức sản xuất mới chưa phát huy hiệu quả; hoạt động xúc tiến thương mại ngành thủy sản chưa tương xứng với yêu cầu… Những điều nói trên là chuỗi dây chuyền ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành thủy sản vùng duyên hải miền Trung.

Trước  thực trạng ấy, việc tìm giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững thủy sản Vùng duyên hải miền Trung là rất cấp thiết.

Tại hội thảo, có rất nhiều ý kiến của các nhà khoa học, chuyên gia đưa ra xoay quanh vấn đề chú trọng đầu tư dịch vụ hậu cần nghề cá;  thay đổi tư duy đánh bắt của ngư dân; đào tạo nguồn nhân lực có trình độ; tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại ngành thủy sản; phát triển nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ môi trường…

Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám, đến nay mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích ngư dân đánh bắt trên biển, nhưng chưa có chính sách  nào mang tính lâu dài, ổn định. Ví như hỗ trợ rủi ro cho ngư dân; thí điểm đóng tàu sắt được thực hiện ở Quảng Ngãi thế nhưng hơn 1 năm nay chưa có con tàu nào nằm trong chương trình hỗ trợ vốn đóng tàu sắt hoạt động. Bởi thực tế cho thấy cơ chế cho vay và cơ chế xử lý rủi ro sử dụng theo cơ chế thương mại thông thường nên còn rất vướng mắc. “Sắp tới, Bộ NN-PTNT sẽ rà soát lại các chính hỗ trợ ngư dân nắm tình hình thức tế làm cơ sở tham mưu cho Chính phủ đưa ra chính sách thích hợp nhất”, Thứ trưởng Vũ Văn Tám, nói.

Cũng theo Thứ trưởng, dự kiến sắp tới của Bộ NN-PTNT có hai định hướng. Thứ nhất tập trung vào đầu tư tín dụng cho ngư dân, trong đó tín dụng trung và dài hạn, để ngư dân có điều kiện nâng tầm hoạt động; thực hiện bảo hiểm cho ngư dân theo QĐ 18 của Chính phủ; trang bị cho ngư dân thiết bị, thông tin liên lạc trên biển, phòng tránh rủi ro. Thứ hai là tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm, đặc biệt chú trọng đến việc phát triển nghề câu cá ngừ đại dương.

Ông Nguyễn Bá Thanh, UVBCHTW Đảng, Trưởng Ban Nội Chính Trung ương, Trưởng Ban điều phối Vùng nhấn mạnh: “Muốn phát triển bền vững từ khâu nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, tiêu thụ ngành thủy sản tại vùng duyên hải miền Trung; trước hết phải hình thành các trung tâm hậu cần nghề cá, bởi vì muốn đánh bắt công nghiệp mà lại khai thác, chế biến, bảo quản thủ công thì không thể vươn lên.  Thứ hai phải thay đổi cách tiếp cận, hình thành DN, tập đoàn đánh cá…”.

Theo ông Nguyễn Bá Thanh, sau hội thảo này, Ban điều phối vùng sẽ triển khai việc tổng hợp ý kiến, đề xuất từ các địa phương để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp; làm cơ sở phát triển các đề án, chương trình cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển thủy sản. Đồng thời tăng cường phối hợp và liên kết với các Tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài để thiết lập hệ thống thông tin chuỗi sản phẩm thủy sản xuất khẩu của vùng; cập nhật thị trường xuất khẩu của vùng trên các cổng thông tin điện tử vùng, địa phương; quảng cáo xúc tiến thương mại và bảo vệ thủy sản.

Xem thêm
Bàn cách tận dụng hết dư địa cho tinh dầu quế

HÀ NỘI Thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và chuyên môn, quy trình sản xuất chưa hoàn thiện và chưa có phương pháp tiếp cận thị trường toàn cầu là khó khăn chung của ngành quế.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Năm 2024, Bình Điền đặt mục tiêu sản xuất, tiêu thụ 568.000 tấn phân bón

TP. HCM Trong năm 2024, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đặt ra nhiều mục tiêu và nhiệm vụ, trong đó sản lượng và tiêu thụ đạt trên 568.000 tấn phân bón các loại.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm