| Hotline: 0983.970.780

Tính đường dài cho lúa gạo Việt Nam

Thứ Tư 10/01/2024 , 15:26 (GMT+7)

Lúa gạo Việt Nam đã có thành công lớn trong năm 2023 nhưng vẫn còn nhiều vấn để phải giải quyết để phát triển ổn định, bền vững trong nhiều năm tới.

Một cánh đồng lớn của Tập đoàn Lộc Trời.

Một cánh đồng lớn của Tập đoàn Lộc Trời.

Giá gạo cao nhất thế giới không phải do ăn may

Tại buổi Tọa đàm "Giải pháp đường dài cho xuất khẩu gạo", do Báo Người Lao động tổ chức ngày 9/1, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, cho rằng, thành công lớn của xuất khẩu gạo trong năm 2023 có cả yếu tố khách quan và chủ quan, đặc biệt là yếu tố nội tại của ngành lúa gạo Việt Nam.

Trong những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có nhiều thời điểm cao hơn giá gạo cùng loại của Thái Lan (giá gạo 5% tấm của Việt Nam hiện vẫn đang cao hơn gạo Thái Lan). Giá cao hơn giá gạo Thái Lan cũng đồng nghĩa với việc giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ở mức cao nhất thế giới. Thế nhưng xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn rất tốt khi lần đầu tiên vượt mốc 8 triệu tấn/năm và đạt kim ngạch kỷ lục gần 4,8 tỷ USD trong năm 2023. Điều này chứng tỏ giá gạo Việt Nam cao nhất thế giới không phải nhờ ăn may mà là do chất lượng gạo của Việt Nam đã được nâng cao.

GS.TS Võ Tòng Xuân chia sẻ, trước đây, các thương nhân kinh doanh lúa gạo quốc tế thường chia gạo làm 2 loại. Một là gạo thơm, hạt dài của Thái Lan và một là gạo trắng. Gạo thơm Thái Lan do sản xuất dài ngày, mỗi năm chỉ có 1 vụ, năng suất lại thấp, do đó, thường được định giá rất cao, tới 800 USD/tấn. Còn gạo trắng được trồng từ các giống lúa ngắn ngày, một năm trồng nhiều vụ, năng suất cao, nhưng không thơm, vì vậy luôn được định giá ở mức thấp, chỉ khoảng 250-300 USD/tấn.

Với sự phát triển mạnh mẽ của công tác nghiên cứu giống lúa trong hàng chục năm qua, Việt Nam hiện đã có bộ giống lúa thơm ngắn ngày, mỗi năm có thể sản xuất 2-3 vụ, năng suất cao và gạo dẻo thơm. Đây là bộ giống mà các nước sản xuất, xuất khẩu lớn như Ấn Độ, Thái Lan… không có được. Và quan trọng hơn, bộ giống này đã giúp Việt Nam định vị một phân khúc gạo mới trên thị trường thế giới: gạo thơm ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt. Đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới.

Liên kết để đi đường dài

Tuy ngành lúa gạo Việt Nam đã có nhiều thành tựu lớn, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế lớn là sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để xây dựng vùng nguyên liệu hiện còn thấp.

Ông Nguyễn Thanh Truyền, Giám đốc Sở NN-PTNT Long An nêu dẫn chứng, diện tích sản xuất vụ đông xuân của tỉnh này là hơn 200 nghìn ha, nhưng hiện chỉ có khoảng hơn 20 nghìn ha có sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp. Còn theo bà Vũ Phương Thủy, Phó Giám đốc phụ trách Sở Công Thương Đồng Tháp, hiện mới có 25% diện tích lúa trên địa bàn có liên kết với doanh nghiệp.

Theo ông Phạm Thái Bình, với đặc thù sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, để hình thành các vùng lúa nguyên liệu, hiện chưa có mô hình nào tốt hơn là xây dựng các cánh đồng lớn thông qua sự liên kết chặt chẽ, một cách bài bản giữa doanh nghiệp và nông dân. Chính vì vậy, một trong những giải pháp đường dài cho ngành lúa gạo Việt Nam là tiếp tục đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để xây dựng các cánh đồng lớn trong sản xuất lúa.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho rằng, sản xuất lúa ở ĐBSCL đã đảm bảo được an ninh lương thực nhưng chưa đảm bảo được an ninh thu nhập cho người trồng lúa. Mà để đảm bảo an ninh thu nhập cho người trồng lúa, phải có cơ chế chia sẻ lợi nhuận cũng như rủi ro giữa doanh nghiệp và nông dân. Việc xây dựng các cánh đồng lớn là giải pháp tốt để tạo nên sự chia sẻ này, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp xây dựng thương hiệu gạo.

Ở Thái Lan, các doanh nghiệp lớn trong ngành lúa gạo cũng đang liên kết với nông dân để xây dựng vùng nguyên liệu, giống như Lộc Trời hay Trung An ở Việt Nam đang làm. Nhưng khác ở chỗ Thái Lan có hàng chục doanh nghiệp liên kết với nông dân để xây dựng vùng nguyên liệu, còn ở Việt Nam, số doanh nghiệp đang làm cánh đồng lớn còn khá ít. Có những doanh nghiệp đang xuất khẩu với số lượng lớn, lên tới 700.000 đến 800.000 tấn/năm nhưng hoàn toàn từ gạo thu gom trên thị trường vì không có một vùng nguyên liệu nào.

Ông Tô Đình Tuân, Tổng biên tập Báo Người Lao Động:

Xây dựng cánh đồng lớn là một chiến lược lâu dài. Công việc này dù khó nhưng rất cần sự kiên trì tham gia của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Bởi yêu cầu về chất lượng sản phẩm đồng nhất là rất quan trọng khi xuất khẩu vào các thị trường. Thực tế đang có những doanh nghiệp thực hiện xây dựng cánh đồng lớn trên diện tích hàng nghìn, hàng chục nghìn ha và đã có được thành công.

Xem thêm
Ngành tôm toàn cầu sẽ tăng trưởng khiêm tốn trong năm 2024

Các thị trường quan trọng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ có sự cải thiện nhẹ về nhu cầu tiêu thụ tôm, nhưng khó khăn vẫn còn nhiều.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Hải Phòng khởi công dự án sản xuất vật liệu phân hủy hơn 2 nghìn tỷ

Đây là một trong những sự kiện quan trọng nằm trong chuỗi các hoạt động chào mừng 69 năm ngày giải phóng Hải Phòng và Lễ hội Hoa Phượng đỏ 2024.

Những gương mặt 'vàng' trong danh sách trả nợ trái phiếu doanh nghiệp bất động sản

Năm 2024, hơn 90 doanh nghiệp bất động sản có trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn với tổng nợ vay gần 100.000 tỷ đồng. Trong đó, nhiều 'ông lớn' có nợ tới hàng nghìn tỷ.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm