| Hotline: 0983.970.780

Đời sống người dân được cải thiện đáng kể

Thứ Tư 31/07/2013 , 09:08 (GMT+7)

Việc phát triển liên tục, bền vững và toàn diện các mặt trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, chế biến và tiêu thụ nông sản, phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH góp phần tích cực vào quá trình xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội là điểm sáng của tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua.

Sáng 30/7, HĐND tỉnh Quảng Trị khóa VI, nhiệm kỳ 2011-2016, đã khai mạc kỳ họp thứ 9. Việc phát triển liên tục, bền vững và toàn diện các mặt trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, chế biến và tiêu thụ nông sản, phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH góp phần tích cực vào quá trình xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội là điểm sáng của tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua.


Toàn cảnh phiên họp HĐND tỉnh Quảng Trị ngày 30/7

Tại kỳ họp này, HĐND tỉnh Quảng Trị xem xét, quyết định các nội dung về tình hình thực hiện NQ của HĐND tỉnh về phát triển Kinh tế- Xã hội (KT-XH) 6 tháng đầu năm và quyết định nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, báo cáo giải quyết công tác khiếu tố khiếu nại và tiếp công dân, tình hình giám sát quản lý sử dụng đất của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, báo cáo công tác điều hành UBND tỉnh... lấy phiếu tín nhiệm những người do HĐND tỉnh bầu hoặc phê chuẩn.

Báo cáo tình hình KT-XH... 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ chủ yếu 6 tháng cuối năm, Phó Bí thư Tỉnh uỷ- Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn Đức Cường cho biết tình hình KT-XH của tỉnh thực hiện trong bối cảnh tình hình kinh tế cả nước tuy có dấu hiệu cải thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Song ngay từ đầu, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch hành động thực hiện và tập trung chỉ đạo quyết liệt đồng bộ các nhiệm vụ giải pháp của NQCP, Kết luận của BCH Đảng bộ Tỉnh khoá 15 và NQ của HĐND tỉnh nên tình hình KT-XH của tỉnh Quảng Trị 6 tháng đầu năm có nhiều chuyển biến tích cực.  

Trong đó, đáng chú ý tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, hoạt động sản xuất từng bước phục hồi, các vấn đề xã hội được quan tâm, nhiều chỉ tiêu đạt khá, nhất là các chỉ tiêu về nông nghiệp. Tổng sản phẩm trong 6 tháng đầu năm ước đạt gần 5.500 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước tăng 7% so cùng kỳ của năm 2012...Tổng thu ngân sách Nhà nước đạt hơn 687 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 53 triệu USD...

Về nông nghiệp và tam nông là điểm nhấn đáng chú ý của kinh tế Quảng Trị. Sản lượng lương thực có hạt đạt gần 14 vạn tấn, gần 60 % kế hoạch năm. Sản xuất nông -lâm- ngư nghiệp tuy gặp thời tiết không thuận lợi do biến đổi khí hậu diễn ra mạnh, nắng nóng sớm vào đầu năm, khô hanh kéo dài, mưa dầm vào mùa hè. Trước tình hình đó tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ giải pháp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, triển khai gieo trồng đúng thời vụ, phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh cơ giới hoá sản xuất, hỗ trợ nông dân nhiều loại giống cây trồng. Vụ Đông -Xuân đảm bảo được an ninh lương thực lương thực toàn tỉnh.   

Ngoài lúa và màu, Quảng Trị đã tập trung phát triển các loại cây công nghiệp lâu năm có tiềm năng, đã hình thành được các vùng sản xuất tập trung phát triển khá ổn định như cà phê ở Hướng Hoá, cao su ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hướng Hoá, hồ tiêu ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ và Hướng Hoá.

Cùng với việc tăng diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng này đã tạo nên sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, mang thương hiệu toàn cầu như cà phê Khe Sanh, tinh bột sắn Hướng Hoá... Tổng diện tích cây công nghiệp đến giữa năm 2013 đạt hơn 27 ngàn ha, trong đó cao su gần 20 ngàn ha, cây cà phê gần 5 ngàn ha, cây hồ tiêu hơn 2 ngàn ha. Việc tăng cường đầu tư, mở rộng diện tích các loại cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là cao su, cà phê và hồ tiêu đã giúp khai thác được tiềm năng lợi thế của từng vùng trong phát triển các cây trồng hàng hoá có giá trị kinh tế cao của tỉnh.

Tổng đàn gia súc, gia cầm đều tăng về số lượng và chất lượng. Đặc biệt đã áp dụng chăn nuôi giống lợn từ 2-3 máu ngoại vào sản xuất, thời gian nuôi ngắn hơn, trọng lượng xuất chuồng cao hơn nên sản lượng xuất chuồng tăng so với cùng kỳ các năm trước. 

Thuỷ sản đang phát triển đúng hướng trở thành ngành kinh tế mạnh của tỉnh, theo hướng đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản, khai thác đi đôi với bảo vệ nguồn lợi, từng bước sắp xếp chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển.

Bảo vệ và phát triển rừng là nhiệm vụ thường xuyên, luôn được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và triển khai đồng bộ, đúng tiến độ, nên đã đưa độ che phủ rừng từ 45,4% năm 2008 lên 47,8% vào năm 2013. Đạt được kết quả đó là nhờ làm tốt công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng. Bình quân mỗi năm trồng được 5.000 ha rừng tập trung, khoanh nuôi tái sinh thêm 3.500 ha rừng tự nhiên.  

Về chương trình MTQGXDNTM, đến nay tỉnh hoàn thành công tác quy hoạch. Phong trào toàn dân chung sức xây dựng NTM có sự chuyển biến tốt trong nhận thức. Nhiều địa phương đạt kết quả tích cực trong xây dựng NTM như Triệu Phong, Hải Lăng, Vĩnh Linh...

Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy kinh tế phát triển nên đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn không ngừng được cải thiện đáng kể. Nhiều lao động nông thôn được giải quyết việc làm ổn định. Thu nhập của hộ dân cư nông thôn không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2008 là 16,8% đến giữa năm 2013 là 13%. GDP bình quân đầu người tăng đều qua các năm, bình quân tăng 14-15%/năm, năm 2012 đạt 23,8 triệu đồng/người/ năm. Đến tháng 6/2013 đạt hơn 25 triệu đồng/người/năm.

Ông Nguyễn Đức Cường- Phó Bí thư Tỉnh uỷ- Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị đánh giá việc không ngừng chú trọng tam nông, từng bước tiếp cận, chuyển giao ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất, đã đưa sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Trị phát triển liên tục, bền vững và toàn diện về tất cả các mặt trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, chế biến và tiêu thụ nông sản, phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh...

Xem thêm
Thái Nguyên thông qua nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã 2023-2025

Đây là 1 trong 10 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại Kỳ họp thứ 18 của HĐND tỉnh Thái Nguyên khóa XIV, nhiệm kỳ 2021-2026.

Syngenta tập huấn kỹ thuật, sử dụng drone an toàn, hiệu quả tại ĐBSCL

Vĩnh Long Ngày 26/4, tại Vĩnh Long, Công ty TNHH Syngenta Việt Nam tổ chức tập huấn cho 230 người điều khiển máy bay phun thuốc BVTV, cách sử dụng an toàn và hiệu quả tại ĐBSCL.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Kỷ lục 120 món ăn chế biến từ sâm dây tại núi rừng Ngọc Linh

Tại núi rừng Ngọc Linh (huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum) đã chứng kiến các đầu bếp chế biến 120 món ăn từ sâm dây và được xác lập kỷ lục Việt Nam.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm