| Hotline: 0983.970.780

Đột phá giống chè

Thứ Sáu 26/06/2015 , 09:57 (GMT+7)

Diện tích chè của Việt Nam đứng TOP 5 thế giới, song giá trị lại thuộc nhóm thấp nhất. 

Vấn đề đặt ra là bộ giống nào phù hợp và cần phát triển sản phẩm chè đen hay chè xanh?

Kinh nghiệm từ thế giới

TS. Đỗ Văn Ngọc, nguyên Phó Viện trưởng Viện KHKT Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (Viện Khoa học nông nghiệp VN) chia sẻ, trên thế giới các nước SX chè đều lấy lợi thế SX, thị trường; từ đó xác định phương án SX, sản phẩm chè, cơ cấu giống. Một số nước SX chè lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan xác định chè xanh, chè Ô Long chất lượng cao là sản phẩm chiến lược.

Khi đã xác định sản phẩm trên, cơ cấu giống chè chủ yếu có nguồn gốc từ biến chủng lá nhỏ hay lá to. Đặc điểm chung của nhóm giống này kích thước nhỏ, năng suất búp trung bình, chất lượng nguyên liệu tốt, thích hợp cho chế biến chè xanh, chè  Ô Long bởi hàm lượng tanin thấp (nhỏ hơn 30%) và có hương thơm đặc trưng.

Trung Quốc hiện là cường quốc về chè xanh khi đã công bố hàng ngàn danh trà chất lượng cao gắn với vùng sinh thái, giá trị hàng hóa rất lớn. Nước này cũng có trên 70 giống chè. Còn Nhật Bản SX chè xanh theo công nghệ đặc thù nhằm cung cấp cho DN chế biến thành các dạng nước giải khát, dược thảo...

Riêng Srilanka, Ấn Độ, Kenya là 3 quốc gia chủ yếu SX chè đen nên lựa chọn cơ cấu giống chủ yếu nguồn gốc từ biến chủng Assamica.

Đặc điểm chung của nhóm giống này có kích thước lớn, năng suất cao, nguyên liệu có hàm lượng tanin (trên 30%), chất hòa tan cao (trên 40%) hàm lượng men oxy hóa cao đáp ứng yêu cầu chế biến chè đen theo công nghệ Orthodox và CTC. Các nước này đang chiếm lĩnh thị trường chè đen thế giới và thuộc nhóm nước XK chè đen có giá cao.

Định hướng

Theo thống kê, hiện chè đen chiếm 50 - 60% tổng lượng chè XK của VN, nhưng gần đây xu hướng thị trường đã có sự thay đổi với việc gia tăng các sản phẩm chè xanh. Dự báo, đến năm 2017 tỷ lệ sản phẩm chè xanh XK chiếm trên 50%, vì thế chọn tạo và chuyển giao giống chè cũng cần bắt kịp nhằm đáp ứng yêu cầu đó của thị trường.

“Để tái cơ cấu ngành chè theo hướng bền vững cần tiếp tục trồng các giống chè mới thích hợp nhằm đa dạng hóa sản phẩm. Nghiên cứu chọn tạo giống chè thích ứng với BĐKH, hàm lượng cafein dưới 3% và giống chè có hoạt chất sinh học cao dùng trong SX đồ uống dưới dạng thảo dược” TS. Đỗ Văn Ngọc.

Theo TS. Đỗ Văn Ngọc, căn cứ vào hiện trạng, diện tích trồng giống chè mới được chọn lọc, có thể phân chia chè của VN thành một số nhóm giống chính với đặc điểm chủ yếu sau:

Chiếm cơ cấu diện tích lớn nhất hiện nay là nhóm giống LDP2 (trên 2 vạn ha), LDP1 (trên 1,5 vạn ha), PH1 (1 vạn ha), chiếm 40% tổng diện tích chè VN. Trong đó, giống PH1 năng suất 15 - 25 tấn/ha/năm, hàm lượng tanin trên 33%, chất hoàn tan trên 44%; các giống LDP1, LDP2 lai giữa hai giống chè có nguồn là biến chủng Cammelia sinensis Assamica và biến chủng Cammelia sinensis microphylla, năng suất búp 15 - 20 tấn/ha/năm, nguyên liệu có hàm lượng tanin cao trên 30%, chất hoàn tan trên 40%. Ưu điểm của nhóm này năng suất cao, thích ứng khá rộng tại các vùng chè miền Bắc và miền Trung.

Về chất lượng nguyên liệu, theo kết quả nghiên cứu và SX, 3 giống chè trên được đánh giá ở mức khá cho chế biến chè đen, nếu dùng nguyên liệu để chế biến chè xanh chỉ đạt chất lượng trung bình khá.

Các giống chè LDP1, LDP2 tuy năng suất rất cao, nhưng khi chế biến chè đen có tỷ lệ xơ cao, nhẹ cánh nên là hạn chế lớn. Cả 3 giống chè trên không nên dùng để chế biến chè xanh chất lượng cao hay chè  Ô Long.

Tiếp theo là nhóm giống năng suất khá, chất lượng cao, có thể chế biến chè xanh cao cấp, chè Ô Long, chè xanh dẹt dạng Long Tỉnh hay chè dạng “mao tiêm” có hương thơm tự nhiên.

Nhóm này gồm các giống Kim Tuyên, Ngọc Thúy, PH10, PH8, PH9, PVT, nguồn gốc chủ yếu thuộc biến chủng Cammelia sinensis microphylla hoặc lai giữa biến chủng Cammelia sinensis microphylla với biến chủng Cammelia sinensis var shan (như PH8, PH9). Nhóm giống trên chiếm khoảng 20% tổng diện tích, năng suất trung bình 8 - 12 tấn/ha/năm.

Nhóm thứ ba là các giống mới, có năng suất rất cao, chất lượng nguyên liệu tốt dùng chế biến chè đen như PH11, PH12, PH14, LD 97 và TB14, song mới chỉ chiếm khoảng 3% diện tích.

"Cần tập trung vào giải pháp tổ chức SX và quản lý chất lượng theo chuỗi giá trị, ứng dụng KHCN phù hợp, tăng năng suất lao động... qua đó nâng thu nhập cho người trồng chè.
Khi sức cạnh tranh của chè VN trên thị trường thế giới tăng lên, chè đen hay chè xanh vẫn có thể tiêu thụ được và sẽ có cơ hội thiết lập chuỗi giá trị toàn cầu để phát triển bền vững”, ông Nguyễn Hữu Tài.

Nhóm này là giống chè bản địa VN, chủ yếu có nguồn gốc từ biến chủng Cammelia sinensis var shan, đặc điểm là kích thước lớn, sinh trưởng mạnh, năng suất cao, nguyên liệu chất lượng khá, thích ứng với vùng núi cao phía Bắc và cao nguyên Lâm Đồng, năng suất 15 - 20 tấn/ha/năm.

Nhóm giống trên chế biến chè xanh, chè xếp thuộc hạng khá và có thể chế biến được cả chè đen. Đặc biệt có hương thơm, vị dịu, chất lượng sản phẩm chè đặc trưng cho vùng núi cao VN như chè Shan Mộc Châu, Suối Giàng, Tủa Chùa, Bảo Lộc…

Về cơ cấu giống chè, theo TS. Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè VN, không dễ SX toàn bộ chè chất lượng cao khi vùng chè không có đủ biên độ so với mực nước biển. Vấn đề là phải có lộ trình để chuyển đổi từng bước, nhất là với nông dân, không thể sớm chặt bỏ chè cũ có năng suất, chất lượng thấp để trồng ngay chè giống mới. Vì thế, cơ cấu sản phẩm chè VN vẫn phải SX cả chè đen và chè xanh.

TS. Nguyễn Hữu Tài chia sẻ, chè đen CTC trong những năm qua tăng nhanh vì công nghệ tối ưu, nhưng vì nguyên liệu chè chủ yếu hái bằng máy mà vườn chè lại chưa được đầu tư theo yêu cầu kỹ thuật (chè quá dài, băm nhỏ, trộn đều) nên sản phẩm chỉ ở mức trung bình và khó cạnh tranh với chè của Kenya. Chè đen OTD phù hợp hơn với điều kiện nguyên liệu của VN vì tách được phần non và phần già riêng biệt và có thể bán được giá cao ở phần non. Vì vậy, các vùng chè lớn ở trung du cần tiếp tục SX chè đen.

"Chè xanh đang có xu hướng tăng nhanh, nhưng không phải vùng nguyên liệu nào cũng có thể chế biến và cơ bản là cần hái bằng tay như các nước SX chè xanh (trừ Nhật Bản có công nghệ trồng, chế biến phù hợp). Các vùng chè miền núi cao cần đẩy mạnh SX chè xanh, các vùng thấp cũng có thể SX khi có đủ điều kiện về giống, thổ nhưỡng và chế độ canh tác. Các vùng chè mang tính đặc sản cần có quy mô hợp lý, có thể SX chè xanh hoặc chè Ô Long", ông Tài nhấn mạnh.

Để làm được điều này, ông Tài cho rằng, cần phải thay đổi nhận thức của người SX về năng suất chè từ sản lượng chè/ha sang giá trị gia tăng/ha và từ sản lượng sản phẩm/nhà máy sang giá trị gia tăng của DN/nhà máy, từ sản lượng và kim ngạch XK sang giá trị sinh lời/tiền vốn của chủ sở hữu.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm