| Hotline: 0983.970.780

Kiến nghị "sốc": Tăng giá điện lên 1.500 đồng/kWh

Thứ Năm 12/08/2010 , 09:49 (GMT+7)

Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) vừa có kiến nghị gửi Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển năng lượng Việt Nam, trong đó nội dung chính là tăng giá điện sinh hoạt lên 1.500 đồng/kWh.

Hạ tầng ngành điện yếu kém, đòi hỏi nguồn đầu tư lớn là nguyên nhân dẫn đến đề xuất tăng giá bán điện.
Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) vừa có kiến nghị gửi Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển năng lượng Việt Nam, trong đó nội dung chính là tăng giá điện sinh hoạt lên 1.500 đồng/kWh.

Theo VEA, ngành năng lượng là kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền KTXH, có công nghệ phức tạp, mang tính đặc thù rất cao, đặc biệt đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn. Do đó, việc thu xếp nguồn vốn đầu tư cho phát triển năng lượng được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phải giải quyết trước tiên. Trong bản kiến nghị gửi Ban Bí thư và Thủ tướng, VEA phân tích về việc thiếu vốn của các dự án điện một cách rõ nét. Vì vậy để đẩy nhanh các dự án điện chỉ còn cách...tăng giá bán.

Trong bản đề xuất xin tăng giá điện, VEA cũng kiến nghị thành lập một TCty quản lý giá điện cho hộ nghèo và giá điện phục vụ công ích xã hội trực thuộc EVN.

Trong phương án giá điện bậc thang đang được áp dụng, VEA cho rằng không hợp lý. Theo ông Ngãi thì với phương án mới mà VEA đang kiến nghị được chia làm 2 phần. Thứ nhất là mức giá điện có hỗ trợ của Nhà nước đối với 50 kWh đầu tiên chỉ nên áp dụng cho các hộ nghèo, cận nghèo, gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng, đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, cán bộ hưu trí, CBCNV hưởng lương không có thu nhập khác và HSSV.

Theo phân tích của VEA, sau một thời gian áp dụng trong thực tiễn, bảng giá điện bậc thang đã bộc lộ những bất cập, bởi 50 kWh đầu tiên không chỉ người nghèo, các hộ chính sách được hưởng mà cả người có thu nhập cao, kể cả người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam cũng hưởng lợi từ cơ chế giá này, gây lãng phí trong sử dụng điện. Như vậy, đối với các hộ sử dụng điện có mức sống trung bình trở lên, cần áp dụng giá bán điện theo thị trường với mức giá từ 7-8 cent/kWh (tương đương khoảng 1.500đồng).

Ông Ngãi cho biết, trước khi đưa ra phương án này, VEA đã tổng hợp, cân nhắc tất cả các ý kiến và xem xét bối cảnh chung của đất nước. “Chúng tôi cho rằng, phương án đưa ra là phù hợp với lộ trình phát triển năng lượng, không gây sốc cho nền kinh tế; vừa đảm bảo lợi ích cho các hộ nghèo, gia đình chính sách". Tuy nhiên, xin nhắc lại rằng, việc đề xuất tăng giá điện mới chỉ là phương án của VEA. Còn nhớ, trước đó dù giá điện năm 2010 đã được Thủ tướng “chốt” là chỉ tăng 6,8% so với bình quân năm 2009 nhưng ngày 24/2, VEA vẫn gửi văn bản “xin” tăng giá điện cao hơn, lên mức 10,7%. Tuy nhiên, Thủ tướng đã không phê duyệt đề nghị này. 

TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ:

Tăng giá, sợ không tăng chất lượng

“Năm qua, phải thừa nhận là ngành điện gây ra quá nhiều thất vọng. Tôi cho rằng, dù là giá điện của nước ta có thể được cho là thấp trong khu vực, nhưng chỉ vì bán điện giá thấp mà cắt điện liên tục như hiện nay, tính ra người dân phải bỏ ra quá nhiều tiền cho chất lượng dịch vụ không tương xứng. Tiền thiệt hại do cắt điện, tiền mua xăng dầu chạy máy nổ, máy phát khi mất điện…đôi khi còn lớn hơn tiền điện phải trả”. Theo TS Thành, có thể lập hẳn một Cty quản lý điện công ích cho Nhà nước, thay vì nửa vời như hiện nay.

TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập:

Tăng giá điện chắc chắn làm lạm phát cao

Điều này có thể nói là đương nhiên. Theo tôi, nguyên nhân của việc chậm tiến độ các công trình điện, dẫn đến thiếu điện và cắt điện vô tội vạ như cách đây không lâu, thì chưa hẳn đã do giá điện thấp. Chúng ta hãy xem lại cơ chế thu hút đầu tư của các DN ngoài ngành vào xây dựng NM điện. Tôi luôn cho rằng, cần phải nghiên cứu thật kỹ trước khi quyết định tăng giá điện, vì nó quá nhạy cảm.

Xem thêm
Bắc Kạn cần hướng đến sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững

FAO tại Việt Nam đánh giá, các hợp tác xã, tổ hợp tác tại tỉnh Bắc Kạn đã cải thiện năng lực tổ chức sản xuất, có nhiều mô hình hiệu quả, thân thiện với môi trường.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Lạng Sơn rà soát lại các gói thầu liên quan đến công ty Thuận An

Công ty Cổ phần Tập đoàn Thuận An tham gia thi công một phần của dự án nâng cấp Quốc lộ 4B, kết nối liên vùng giữa tỉnh Lạng Sơn - Quảng Ninh.

Cựu binh Đồi A1 & ký ức 'máu trộn bùn non'

Tròn 70 chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng những đồng đội, những nắm cơm, những chiến hào 'máu trộn bùn non'… vẫn còn mãi trong tâm trí nhà giáo ưu tú Đỗ Ca Sơn.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm