| Hotline: 0983.970.780

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh viết về quan hệ Việt-Trung

Chủ Nhật 18/01/2015 , 17:07 (GMT+7)

65 năm trước, vào ngày 18/1/1950, nước CHND Trung Hoa, nhà nước đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Trung Quốc (18/1/1950-18/1/2015), Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu bài viết "Phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc vì hòa bình, ổn định và phồn vinh" của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.


Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại buổi chiêu đãi kỷ niệm 65 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Trung Quốc (18/1/1950-18/1/2015) do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam tổ chức, tối 15/1. Ảnh: VGP/Hải Minh

Việt Nam-Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông. Nhân dân hai nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. 65 năm trước, vào ngày 18/1/1950, nước CHND Trung Hoa, nhà nước đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã đặt mốc lịch sử quan trọng trong mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc.

65 năm qua, tình cảm hữu nghị giữa hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng nhiều thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản quý báu của hai dân tộc. Những năm tháng hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước cùng ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc cách mạng trước đây đã để lại những ấn tượng và tình cảm sâu sắc đối với nhân dân hai nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn trân trọng và chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chí tình của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc cũng như của bạn bè quốc tế khắp năm châu đã dành cho Việt Nam trong công cuộc giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

65 năm qua, quan hệ giữa hai nước tuy có trải qua thăng trầm nhưng ngày càng phát triển. Sau bình thường hóa năm 1991, quan hệ Việt-Trung phát triển nhanh chóng. Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ ổn định, hữu nghị giữa hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo cấp cao hai bên đã thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và liên tục củng cố khuôn khổ quan hệ hai nước. Hai nước đã xác định phát triển quan hệ theo phương châm láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai và nhất trí cùng nhau trở thành láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt. Đặc biệt, từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện năm 2008, quan hệ Việt-Trung đã không ngừng mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực.

Hiếm có đối tác nào của Việt Nam có nhiều cơ chế giao lưu, hợp tác sâu rộng giữa hai Đảng, Chính phủ, Quốc hội và giữa các tổ chức chính trị xã hội, địa phương như Trung Quốc. Vào thời điểm hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991, ít ai hình dung được chỉ 23 năm sau, năm 2014, tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung sẽ tăng tới hơn 1.500 lần (đạt hơn 55 tỷ USD so với mức 32 triệu USD năm 1991). Từ con số không, đầu tư của Trung Quốc đến nay đã đạt tổng số vốn đăng ký xấp xỉ 8 tỷ USD, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 9 trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam có hơn 13.000 sinh viên đang học tập tại Trung Quốc và Trung Quốc cũng có hàng nghìn sinh viên đang học tập tại Việt Nam. Hợp tác quốc phòng, an ninh, văn hóa, thể thao, y tế, khoa học kỹ thuật... giữa hai nước cũng đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, các hoạt động giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nhất là giữa các địa phương khu vực biên giới, giữa các thế hệ trẻ hai nước được tổ chức thường xuyên với quy mô lớn, đã góp phần tăng cường sự hiểu biết và củng cố nền tảng hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Chưa đầy 20 năm sau khi bình thường hóa quan hệ, với thiện chí và xuất phát từ lợi ích lâu dài, hai nước đã giải quyết thành công 2 trong 3 vấn đề do lịch sử để lại hết sức phức tạp trong quan hệ hai nước, đó là hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ. Vấn đề Biển Đông đòi hỏi cả hai nước cùng nỗ lực kiên trì tháo gỡ khó khăn. Những diễn biến gần đây trên Biển Đông càng cho thấy sự cần thiết phải tôn trọng lợi ích chính đáng, giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, cả hai Đảng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều đứng trước những thời cơ và thách thức mới trong công cuộc đổi mới, cải cách mở cửa và phát triển đất nước. Việt Nam đang ra sức nỗ lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Trung Quốc đang đẩy mạnh triển khai mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện vào năm 2020. Hơn bao giờ hết, hai bên đều cần môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển ở mỗi nước. Việt Nam chân thành mong muốn Trung Quốc phát triển thành công, có vai trò tích cực trong việc bảo vệ hòa bình, ổn định và thúc đẩy sự thịnh vượng ở khu vực châu Á nói riêng và trên phạm vi toàn cầu nói chung. 

Năm 2015 - năm kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước - là dịp tốt để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua và cùng hướng tới một chặng đường mới cho quan hệ hai nước. Trước sau như một, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Trung Quốc, chân thành mong muốn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc ngày càng phát triển đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững trong bối cảnh nhiều khu vực trên thế giới đang đầy rẫy các bất ổn và mọi con mắt đang hướng và đặt nhiều kỳ vọng vào châu Á. 

Trên tinh thần đó, trong năm kỷ niệm 2015 và các năm tiếp theo, hai bên cần thúc đẩy hợp tác thực chất, tăng cường sự tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước. Các Bộ ngành và địa phương hai nước cần cùng nhau cố gắng thực hiện hiệu quả Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, đáp ứng nguyện vọng và đem lại lợi ích cho nhân dân hai bên. 

Để củng cố nền tảng vững chắc cho quan hệ hai nước, hai bên cần tích cực có nhiều hoạt động thiết thực nhằm tăng cường tình cảm hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước, đặc biệt giữa thế hệ trẻ hai nước.

Bên cạnh đó, hai bên cần thực hiện có hiệu quả nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, thúc đẩy các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, thực hiện nghiêm túc, đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), góp phần thúc đẩy quan hệ Việt-Trung ngày càng phát triển cũng như bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông và ở khu vực.

Tình hình thế giới và khu vực đã và sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi so với thời điểm Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao 65 năm trước. Tuy nhiên, có một điều không bao giờ thay đổi: Đó là, hòa bình, ổn định và phát triển là nguyện vọng và lợi ích chung của cả hai dân tộc. Hợp tác hữu nghị là sứ mệnh của Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước. Tương lai của mỗi nước cũng như hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực đòi hỏi quan hệ Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh.

(Chinhphu.vn)

Xem thêm
Syngenta tập huấn kỹ thuật, sử dụng drone an toàn, hiệu quả tại ĐBSCL

Vĩnh Long Ngày 26/4, tại Vĩnh Long, Công ty TNHH Syngenta Việt Nam tổ chức tập huấn cho 230 người điều khiển máy bay phun thuốc BVTV, cách sử dụng an toàn và hiệu quả tại ĐBSCL.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Kỷ lục 120 món ăn chế biến từ sâm dây tại núi rừng Ngọc Linh

Tại núi rừng Ngọc Linh (huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum) đã chứng kiến các đầu bếp chế biến 120 món ăn từ sâm dây và được xác lập kỷ lục Việt Nam.

Chuyện làm du lịch ở miền núi Phú Thọ: [Bài 1] Đồi chè Long Cốc, nàng tiên không ban cho dân được mấy tiền

'Không mấy ai nhìn ra giá trị của rừng Xuân Sơn, Tân Sơn nên bỏ lỡ cơ hội phát triển du lịch', TS. Ngô Kiều Oanh tiếc rẻ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm