| Hotline: 0983.970.780

Về vùng hành lớn nhất miền Bắc

Thứ Hai 13/01/2014 , 11:22 (GMT+7)

Mặc dù lần thứ hai về thăm Kinh Môn (Hải Dương), nhưng chúng tôi vẫn bị cuốn hút, ấn tượng bởi màu xanh ngút ngàn, mùi thơm từ những cánh đồng trồng hành, tỏi có thể nói là lớn nhất miền Bắc.

LTS: Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, liên kết tổ chức SX hàng hóa đạt hiệu quả kinh tế cao... góp phần tái cấu trúc ngành NN-PTNT. NNVN khởi đăng một số mô hình trồng trọt để các địa phương tìm hiểu, áp dụng.

Chúng tôi về Kinh Môn (Hải Dương) khi trời lạnh buốt và những cơn gió thổi hắt lên từ sông Kinh Thầy càng làm tăng thêm cái lạnh trước tiết tiểu hàn. Mặc dù lần thứ hai về thăm vùng này, nhưng chúng tôi vẫn bị cuốn hút, ấn tượng bởi màu xanh ngút ngàn, mùi thơm từ những cánh đồng trồng hành, tỏi có thể nói là lớn nhất miền Bắc.

SX chuyên nghiệp

Chị Nguyễn Thu Hà, Trưởng phòng Trồng trọt, Sở NN-PTNT Hải Dương dẫn chúng tôi thăm những vùng SX vụ đông “có số, có má” và tự hào khoe: "Các anh biết không, diện tích hành của cả tỉnh gieo trồng trung bình hàng năm khoảng trên dưới 5.000 ha nhưng vùng hành tập trung của các cụm xã Hiệp Hòa, Lê Ninh, Lạc Long, Thăng Long ở Kinh Môn đã chiếm tới 3.500 ha".

Và quả thật, xe chúng tôi chạy bon bon dọc theo con đường bờ sông, nhưng mãi mới ra tới giữa cánh đồng hành xanh ngút này. Cái mà chúng tôi thán phục bà con nông dân ở đây là sự sáng tạo và kinh nghiệm thâm canh, sự chịu thương, chịu khó một nắng, hai sương và toàn bộ diện tích trồng hành trên đất 2 vụ lúa.

Ông Dương Văn Tấn, Chủ nhiệm HTX Hiệp Hòa cho biết: Kinh Môn là vùng trồng hành lấy củ, hành củ để già và chỉ thu hoạch khi mà hành đã “xuống dọc”, củ đã được tích lũy phình to, một phần thân củ đã trồi lên mặt luống, lá đã ngả màu. Hành củ Kinh Môn có mặt trên khắp các chợ trong cả nước và góp phần làm lên hương vị của cái Tết cổ truyền: “Bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”. Chất lượng của hành tỏi ở đây được thị trường ưa chuộng và đánh giá cao.

Theo số liệu tổng hợp của Phòng Trồng trọt, Sở NN-PTNT Hải Dương, với trên 3.500 ha hành, năng suất trung bình đạt 15 tấn/ha, sản lượng hành của Kinh Môn đạt 55.000 tấn, trong đó một phần được xuất sang Trung Quốc. Một số tư thương ở đây cho biết, Trung Quốc rất ưa chuộng hành tỏi của các tỉnh miền Bắc VN, vì chất lượng, độ thơm, cay. Tuy vậy cũng có thời điểm hành từ Trung Quốc đổ ngược về VN, do cạnh tranh về giá tốt hơn, mức độ an toàn thực phẩm thì họ nói “cần xem lại”.


Mùa hành "ngọt" ở Kinh Môn

Ngoài Kinh Môn thì Nam Sách, Kim Thành cũng có những vùng hành tỏi, tuy nhiên diện tích tập trung và làm trên đất 2 vụ lúa thì quy mô nhỏ hơn. Vùng Nam Sách chủ yếu là trồng hành hoa, tức là hành thu non, lấy cả lá và phần củ chưa già, phục vụ ăn tươi. Nông dân ở đây trồng hành khá "siêu" và họ chọn những giống hành đẻ nhánh cực mạnh; hành cứ được tỉa dần cung cấp “dài dài” cho thị trường nội địa.

Về chế biến, Hải Dương mới có một công ty chế biến hành thái lát sấy khô, cả củ và lá, tuy nhiên công suất cũng còn khiêm tốn, chính vậy mà thị trường tiêu thụ đôi khi cũng trong cảnh “trồi sụt” thất thường cùng cảnh ngộ của nhiều mặt hàng nông sản. Mặc dù vậy các cán bộ HTX ở đây vẫn khẳng định: “Vụ đông vẫn là vụ làm giàu; giá trị thu hoạch từ 1 ha hành tỏi ở đây biến động từ 200 - 300 triệu đồng, bằng 3 lần làm 2 vụ lúa. Những tòa biệt thự, những căn nhà đúc hoành tráng đều từ cây hành, củ tỏi mà ra cả đấy”.

Ông Vũ Đức Thảo ở xã Thăng Long trồng 1,2 ha hành vụ đông nói rằng: "Đúng là chỉ có dồn ruộng, làm lớn thì nông dân mới làm giàu và dám đầu tư cả về cơ giới và công nghệ. Cái khó nhất, chi phí lớn nhất của trồng hành vụ đông là vấn đề giống; giống ở đây phần lớn là nông dân chúng tôi tự chọn, tự lo, tự bảo quản. Nếu không biết cách, không có kinh nghiệm thì có khi công sức đổ cả xuống sông do hỏng giống trong bảo quản.

Hiện tượng “bỏ vỏ” của hành các anh cũng biết đấy; cả tấn hành giống khi nhập vào bảo quản có khi chỉ vớt vát được vài chục kg, còn lại là vỏ nếu sai quy trình và thiếu kinh nghiệm".

Cũng là một hộ có tới 0,7 ha trồng hành vụ đông, ông Nguyễn Hữu Dũng ở xã Thăng Long cho biết: Trồng hành không phải là khó, nhưng phải biết kỹ thuật, đúc rút được kinh nghiệm; sử dụng phân bón, lên luống, lấp củ, chăm sóc để hành đẻ vừa phải, củ to chắc và phải thơm nồng cay xè mắt khi cắt. Sâu bệnh trên hành ở vụ đông cũng cần hết sức chú ý. Lạnh, nhiệt độ thấp thì làm củ tốt, năng suất cao, nhưng nếu gió đông nhiều, ấm thì củ bé mà lá thì nhiều, rồi nhanh luỗng lá khi sương mù, ẩm độ cao. Những năm có điều kiện thời tiết như vậy phải sử dụng thuốc trừ bệnh mới giữ được lá hành.

Ông Dũng và ông Thảo mỗi vụ cũng để ra được hàng trăm triệu từ hành sau khi đã trừ chi phí.

Thiếu đầu tư

Mặc dù là một vùng truyền thống SX hàng hóa của tỉnh nhưng vùng hành tỏi Kinh Môn cũng chưa thực sự được quan tâm đầu tư, cây hành cũng chưa được hưởng chính sách hỗ trợ của các cấp, các ngành; giá trị mang lại cho ngành nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở cụm xã này là rất lớn.

Theo các cán bộ địa phương ở đây thì, để nâng cao giá trị trong chuỗi SX sản phẩm hành tỏi cần nâng cấp hệ thống tưới để không phải nơm nớp lo úng, lụt và nhất là tưới đủ ẩm khi gặp hanh khô đúng vào giai đoạn hành cần ẩm để sinh trưởng thân, lá.

Hệ thống giao thông nội đồng cũng cần được đầu tư để hàng trăm ngàn tấn hành củ tươi được lưu thông tốt hơn, khách hàng đến với Kinh Môn thuận lợi hơn và hơn bao giờ hết là hỗ trợ đầu tư máy móc để cơ giới hóa khâu lên luống, làm đất, kết hợp với bón phân lót, đặt củ…

Về khoa học công nghệ, cần có những nghiên cứu và khuyến cáo công tác chọn giống, bảo quản giống nhằm giảm chi phí giống khi gieo trồng, một trong những khâu “ngốn” chi phí đầu vào cao nhất của cây hành;

Vùng Kinh Môn cũng rất cần sự có mặt của các DN trong tổ chức SX, SX theo tiêu chuẩn GAP, xây dựng thương hiệu và nhất là chế biến, bảo quản để giá trị từ củ hành tăng lên gấp 3 - 4 lần hiện nay.

Vụ đông ở miền Bắc là một lợi thế lớn; các sản phẩm củ, quả của chúng ta vừa phong phú về chủng loại, vừa có chất lượng khiến nhiều vùng phải “ghen tỵ” khi mà chúng ta trồng được và thu hoạch rộ thì một loạt các vùng ở phía Bắc của Trung Quốc như Tứ Xuyên, Vân Nam… tuyết dày đang bao phủ, rau tươi nếu có trồng được thì chỉ có thể bằng công nghệ nhà kính, nhà lưới với chi phí không nhỏ và tất nhiên giá thành cũng sẽ rất cao.

Vấn đề là chính sách và cách tổ chức SX như thế nào để có thể đưa các sản phẩm này sang nước bạn một cách bền vững? Câu hỏi này chỉ có thể được giải đáp khi tất cả các Bộ ngành liên quan vào cuộc, và chúng ta phải có con đường chính thống, chính ngạch và đảm bảo an toàn, hạn chế tối đa rủi ro về thương mại.

Xem thêm
Vùng cao nuôi con đặc sản: [Bài3] Độc đáo heo thảo mộc

Một con heo bình thường, nhưng khi được nuôi với quy trình đặc biệt thì nó trở thành đặc sản, đó là cách nuôi cho heo ăn thảo dược…

Cục trưởng Cục Thú y: ‘Không có lợi ích nhóm trong hoạt động kiểm dịch động vật’

Trước thông tin có lợi ích nhóm trong hoạt động kiểm dịch động vật, Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long đã đối thoại với các doanh nghiệp để làm rõ tin đồn này.

Trồng sầu riêng nghịch vụ, kiếm tiền tỷ mỗi năm

CẦN THƠ Một kỹ sư nông nghiệp có bí quyết xử lý sầu riêng nghịch vụ, tận dụng khoảng trống thị trường để bán được giá cao, mang về doanh thu tiền tỷ mỗi năm.

Lãi gấp đôi khi chuyển sang trồng rau thủy canh

HẢI PHÒNG Mạnh dạn chuyển sang ứng dụng công nghệ mới trong trồng rau, Hợp tác xã nông nghiệp Thái Sơn đã thu được lợi nhuận gấp đôi bình thường ngay trong vụ đầu tiên.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm