| Hotline: 0983.970.780

2 giống khoai lang chất lượng cao

Thứ Tư 10/11/2010 , 10:55 (GMT+7)

Đó là 2 giống khoai lang KTB1 và KTB2 đều là giống khoai lang cho năng suất và chất lượng cao có thể đưa vào vụ đông tại các tỉnh Bắc Trung bộ sau lũ lụt.

Đó là 2 giống khoai lang KTB1 và KTB2 đều là giống khoai lang cho năng suất và chất lượng cao có thể đưa vào vụ đông tại các tỉnh Bắc Trung bộ sau lũ lụt.

Giống KTB1:

Do Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung bộ và Trung tâm Tài nguyên thực vật chọn lọc từ các cá thể phân ly của giống khoai lang Nhật Bản.

Giống KTB1 sinh trưởng khoẻ, chống chịu rét khá, có dạng hình bò lan, thân màu tím nhạt, lá hình tim nông, lá non có màu xanh hơi tím, lá trưởng thành màu xanh. Củ thuôn dài, vỏ màu đỏ và ruột màu vàng đậm đặc trưng, ăn ngon và bở. Năng suất thực tế tại Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung bộ đạt khá cao: 15 – 20 tấn củ/ha, cao hơn giống đối chứng Chiêm dâu 10-15%. KTB1 có thời gian sinh trưởng 110 ngày ở vụ đông, vụ xuân khoảng 120 ngày.

Giống khoai lang KTB1 đã được Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung bộ trồng thử nghiệm tại một số tỉnh vùng Bắc Trung bộ như: Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh qui mô diện tích trên 1 ha/mô hình. Kết quả đánh giá tại hội thảo đầu bờ cuối vụ xuân năm 2010 đều cho năng suất khá cao, từ 18 đến 20 tấn/ha (năng suất bình quân khoai lang ở Việt Nam chỉ mới đạt 7,0 tấn/ha).

 Theo nhận xét của các đại biểu giống khoai KTB1 có đặc điểm hình dạng củ, màu sắc vỏ củ rất được ưa chuộng, đặc biệt là màu sắc ruột củ có màu vàng đậm đặc trưng và không có nhiều xơ như một số giống khoai lang Nhật Bản khác. Giống KTB1 luộc ăn có ưu điểm bở và thơm ngon. Giống có thể trồng được cả 2 vụ: Vụ xuân trồng từ 15/1 – 15/2, vụ thu - đông nên trồng từ 10/9 - 10/10. Muốn đạt năng suất cao, chất lượng tốt cần phải trồng bằng dây giống bánh tẻ sạch bệnh, mật độ 4 - 5 dây/m đặt dọc theo luống, bón phân đầy đủ (500-700 kg phân chuồng + 12 kg super lân + 9 kg đạm ure + 10 kg clorua kali cho 1 sào 500 m2).

Bà con nông dân ở huyện Nghi lộc (Nghệ An) và xã Xuân Mỹ (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) cho biết vụ đông năm 2009, năng suất giống KTB1 đạt 16-18 tấn/ha, chất lượng khoai rất cao. Vụ xuân năm 2010 thu hoạch tại các mô hình, năng suất củ đều đạt 18 tấn/ha, trong đó củ loại 1 được 12 tấn/ha, bán buôn cho thương lái bình quân giá 4.000đ/kg, cho thu trên 40 triệu đồng, cao hơn nhiều so với các giống khoai lang hiện trồng phổ biến trên địa bàn.

Theo đánh giá kết quả khảo nghiệm giống KTB1 từ năm 2008 đến 2010 tại Bắc Trung bộ, giống có nhiều triển vọng để phát triển như một cây trồng hàng hóa trên dải đất cát ven biển của vùng Bắc Trung bộ.

Giống KTB2:

Được chọn lọc từ tổ hợp lai xác định K51/KB1 trong vụ đông năm 2002 tại Trung tâm Cây có củ, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam (VASI cũ, nay là VAAS), người thực hiện là PGS.TS Mai Thạch Hoành. Giống KTB2 được Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung bộ nghiên cứu chọn lọc tiếp từ 2006 đến nay.

Giống khoai lang KTB2 có dạng thân nửa đứng, màu xanh tím, phân cành nhiều, lá hình tim màu xanh đậm, màu sắc lá ngọn tím. Củ hình bầu dục, vỏ củ màu trắng tím ở hai đầu, ruột củ trắng. Giống khoai lang KTB2 sinh trưởng khoẻ, có thời gian sinh trưởng ngắn, ở vụ thu đông là 110 ngày, vụ xuân 115 ngày. Thân lá mềm, thích hợp làm thức ăn chăn nuôi. Năng suất sinh khối cao trên 44 tấn/ha, năng suất củ cao đạt trên 23 tấn củ/ha. Giống khoai lang KTB2 có khả năng chống chịu sâu bệnh khá, chịu rét tốt.

Giống khoai lang KTB2 cũng đã được Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung bộ trồng thử nghiệm các mô hình tại một số tỉnh vùng Bắc Trung bộ như: Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh qui mô diện tích trên 1 ha/mô hình. Kết quả đánh giá tại hội thảo đầu bờ vào cuối tháng 5 năm 2010 cho thấy năng suất giống khoai KTB2 rất cao, đạt từ 22 - 25 tấn/ha.

 Tại hội thảo các đại biểu đánh giá cao giống khoai KTB2 có khả năng sinh trưởng khoẻ, tiềm năng năng suất cao, năng suất sinh khối lớn thích hợp cho chăn nuôi, ít sâu bệnh, chịu rét, chịu ngập tốt và có thể thay thế các giống khoai lang địa phương hiện nay.

Theo nhóm cán bộ nghiên cứu Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung bộ, giống khoai lang KTB2 có thể trồng được cả 2 vụ: Vụ xuân trồng từ 15/1 – 15/2, vụ thu đông trồng từ 10/9 - 10/10. Cũng giống như giống khoai lang KTB1, muốn đạt năng suất cao cần phải trồng bằng dây giống bánh tẻ sạch bệnh, mật độ 4 - 5 dây/m đặt dọc theo luống, bón phân đầy đủ (500 -700 kg phân chuồng + 12 kg super lân + 9 kg đạm urea + 10 kg clorua kali cho 1 sào 500 m2).

Vụ đông năm 2009, năng suất giống khoai lang KTB2 tại Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung bộ đạt 20 tấn/ha. Vụ xuân năng suất của giống KTB2 đạt 23 tấn/ha. Sau 3 năm khảo nghiệm tại các tỉnh Bắc Trung bộ giống khoai lang KTB2 đã chứng tỏ được triển vọng phát triển thành vùng khoai năng suất cao trên toàn dải đất cát ven biển rộng lớn của vùng Bắc Trung Bộ.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Mùa vàng trên cánh đồng sạ cụm

QUẢNG BÌNH Mô hình gieo sạ lúa bằng máy tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Hàm Hòa trong vụ đông xuân 2023 - 2024 với diện tích trên 10ha cho hiệu quả lớn…

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm