Trải qua 4 giai đoạn chính
Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân chia sẻ, vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm các làng cá và bà con ngư dân ở các đảo Tuần Châu, Cát Bà. Tại đây, Bác đã căn dặn: “Biển bạc của ta do dân ta làm chủ”. Lời dạy của Bác thể hiện tư tưởng lớn về tiềm năng vô tận của kinh tế biển và khơi dậy ý thức về bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thể theo nguyện vọng của ngành thủy sản và đông đảo bà con ngư dân, ngày 1/4 hàng năm đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định chính thức là Ngày Truyền thống ngành thủy sản Việt Nam.
Với truyền thống lâu đời và bằng sự bền bỉ phấn đấu không ngừng, toàn thể cán bộ, ngư dân, lao động trong ngành thủy sản đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển ngành thủy sản từ một lĩnh vực sản xuất nhỏ, vươn lên trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khối nông, lâm, ngư nghiệp và đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, cải thiện rõ rệt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của bà con ngư dân, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Trong 65 năm qua, ngành thủy sản đã có những bước phát triển và hội nhập, trải qua 4 giai đoạn chính với những thành tựu nổi bật như sau:
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1959 - 1975
Đây là giai đoạn đất nước có chiến tranh, cán bộ và ngư dân ngành thủy sản cùng cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng Cộng hòa xã hội ở miền Bắc và đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam”. Trong chính giai đoạn cam go này, năm 1960, Tổng cục Thủy sản trực thuộc Bộ Nông Lâm được thành lập.
Giai đoạn này, kinh tế hợp tác xã chiếm tỷ trọng lớn trong nghề cá biển. Thông qua phong trào hợp tác hóa, nghề cá du nhập công nghệ mới, cơ giới hóa thuyền nghề, ni lông hóa lưới sợi. Các đoàn tàu đánh cá Việt - Xô, Việt - Trung, Việt - Đức, Việt Triều được thành lập, các nhà máy đồ hộp Hạ Long, cơ khí Hạ Long, cơ khí Vật Cách… tạo nền tảng ban đầu cho công nghiệp nghề cá Việt Nam. Sản lượng khai thác cá biển thời kỳ 1960 - 1965 đạt 110.000 - 130.000 tấn/năm. Các năm 1966 - 1975, trong tình hình có chiến tranh, sản lượng khai thác cá biển vẫn đạt 60.000 - 100.000 tấn/năm.
Từ năm 1963, các nhà khoa học thủy sản đã cho sinh sản nhân tạo thành công giống cá mè, trắm, chép, trôi, mrigan, rô phi… Sản xuất tôm giống nhân tạo cũng đã thành công bước đầu, mở ra triển vọng phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản sau này. Cũng năm 1963, sản phẩm của Nhà máy cá hộp Hạ Long được xuất khẩu. Năm 1971, những sản phẩm thủy sản đông lạnh Việt Nam đầu tiên được xuất khẩu sang thị trường khu vực II (Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông).
Giai đoạn thứ hai 1976 - 1986
Trước đòi hỏi khách quan và bức thiết phát triển nghề cá biển, trong kỳ họp đầu tiên năm 1976, Quốc hội Việt Nam thống nhất đã thành lập Bộ Hải sản. Năm 1981, Bộ Hải sản được tổ chức lại thành Bộ Thủy sản.
Đây là giai đoạn đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng của ngành thủy sản trong bối cảnh đất nước thống nhất, kinh tế thủy sản bắt đầu được chăm lo phát triển để manh nha một ngành kinh tế kỹ thuật.
Giai đoạn đầu (1976 - 1980), do hậu quả nặng nề của chiến tranh và do cơ chế quản lý chưa phù hợp, tiêu thụ theo cách giao nộp sản phẩm, đánh giá kết quả theo khối lượng hàng hóa, không chú trọng giá trị sản phẩm, động lực thúc đẩy sản xuất thủy sản hạn chế, kinh tế thủy sản sa sút nghiêm trọng.
Tuy nhiên, từ năm 1981, sau khi Công ty Seaprodex Việt Nam thành lập, được Nhà nước cho phép áp dụng thử nghiệm cơ chế “tự cân đối, tự trạng trải”, thực chất là chú trọng nâng cao giá trị của sản phẩm làm ra nhằm tạo nguồn đầu tư để tái sản xuất mở rộng, ngành thủy sản bắt đầu bước vào phát triển mạnh mẽ. Những năm 1980, thủy sản được coi là một trong những ngành đi tiên phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Con đường mới của ngành đã được mở ra như một hải trình vươn ra đại dương rộng lớn.
Giai đoạn thứ ba từ năm 1986 - 1995
Tiếp theo giai đoạn manh nha phát triển từ trước, giai đoạn này chứng kiến những bước đi mạnh mẽ, phát triển toàn diện ngành thủy sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VII xác định xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Giai đoạn này, các mô hình kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích, các thành phần kinh tế được thu hút, đẩy mạnh đầu tư phát triển, góp phần củng cố thế mạnh của nghề cá nhân dân.
Tổng sản lượng thủy sản vượt qua ngưỡng 1 triệu tấn vào năm 1990. Tôm nuôi cho xuất khẩu được xác định là mũi đột phá quan trọng, các đối tượng nuôi khác cũng ngày càng đa dạng hơn, cả ở nước ngọt, nước lợ và nuôi biển.
Từ giữa những năm 1990, ngành thủy sản tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận và từng bước đáp ứng đòi hỏi của các thị trường lớn, nhờ đó sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã tạo được uy tín và đứng vững trên các thị trường thủy sản lớn nhất trên thế giới.
Năm 1995, tổng sản lượng thủy sản đạt 1,34 triệu tấn, trong đó khai thác 928,8 nghìn tấn, nuôi trồng 415,3 nghìn tấn; xuất khẩu đạt 550 nghìn USD. Giai đoạn 1980 - 1990, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trung bình 48,29%/năm; đến giai đoạn 1991 - 1996, tăng xuất khẩu vẫn duy trì ở mức 15,97%/năm.
Giai đoạn thứ tư từ năm 1995 - nay
Năm 2007, Bộ Thủy sản hợp nhất với Bộ NN-PTNT. Tháng 3/2010, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Tổng cục Thủy sản thuộc Bộ NN-PTNT. Tháng 4/2014, lực lượng kiểm ngư được thành lập.
Đây là giai đoạn phát triển ngành thủy sản một cách mạnh mẽ toàn diện. Sản xuất kinh doanh thủy sản chuyển biến vượt bậc theo hướng nâng cao năng lực, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả nước, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Ngành thủy sản đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Sau 20 năm phát triển toàn diện, ngành thủy sản đã có những bứt phá vượt bậc. Sản lượng thủy sản năm 2023 đạt hơn 9,3 triệu tấn, gấp 7,1 lần so với năm 1995, nuôi trồng thủy sản đạt 5,5 triệu tấn, gấp hơn 5 lần so với năm 1995. Cơ cấu sản lượng thủy sản có bước chuyển dịch tích cực, tỷ trọng sản lượng nuôi trồng tăng từ 31% năm 1995 lên gần 57% năm 2023.
Với sự năng động sáng tạo, vượt qua bao khó khăn thử thách, sản phẩm thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu tới hơn 170 thị trường, kim ngạch xuất khẩu lần đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD (năm 1999) và gần 11 tỷ USD (năm 2022), đưa Việt Nam vào vị trí số 3 trong các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới (Trung Quốc, Na Uy, Việt Nam…).
Cùng với những con số tuy khô khan nhưng thể hiện được rất nhiều nỗ lực trong từng bước đi của các thế hệ lãnh đạo, cán bộ và nhân viên của ngành là cả bề dày nền tảng mà mồ hôi, trí tuệ và xương máu của họ đã được ghi nhận. Trong quá trình xây dựng và phát triển đến nay, rất nhiều phần thưởng cao quý đã được Đảng, Nhà nước trao tặng: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Lao động hạng Nhất (2019), phong tặng và truy tặng cho nhiều tập thể và cá nhân danh hiệu Anh hùng Lao động; hàng ngàn tập thể và cá nhân đã được khen tặng Chiến sỹ thi đua, Nhà giáo ưu tú, Huân chương Lao động các cấp, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Thủy sản; Bằng khen của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, hàng vạn cá nhân được tặng thưởng Huy chương “Vì sự nghiệp phát triển Nghề cá”. Ngành cũng có 1 Giải thưởng Hồ Chí Minh; 2 Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ trao cho các công trình nghiên cứu khoa học của ngành; 10 Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ khác. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngành Thủy sản có 3.435 cá nhân được nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến các loại.
Từ truyền thống cao quý và đáng tự hào ấy, cùng với nỗ lực của biết bao thế hệ đội ngũ cán bộ, công nhân viên của ngành, thủy sản Việt Nam đã xây dựng được một nền tảng căn cơ và bài bản để hướng đến những mục đích to lớn hơn, góp phần làm điểm tựa cho sự phát triển của cả đất nước.
Không ngừng xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có thương hiệu uy tín
Trong những năm qua, ngành thủy sản luôn được Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn quan tâm, đã ban hành nhiều văn bản cho ngành:
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra mục tiêu “đưa Việt Nam trở hành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực, phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững”.
Ngành thủy sản cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại Chiến lược Thủ tướng Chính phủ xác định quan điểm: “Xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô và tỷ suất hàng hóa lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững. Hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển có trách nhiệm theo hướng kinh tế tuần hoàn, nâng cao năng suất chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả; thu hút các nguồn lực, các thành phần kinh tế đầu tư phát triển thủy sản hiệu quả với lực lượng doanh nghiệp là nòng cốt; đến năm 2045, thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững; là trung tâm chế biển thủy sản sâu, thuộc nhóm ba nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển, góp phần bảo đảm an ninh dinh dưỡng, thực phẩm; bảo đảm an sinh xã hội, làng cá xanh, sạch, đẹp, văn minh; lao động thủy sản có mức thu nhập ngang bằng mức bình quân chung cả nước; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc”.
Từ ngàn đời xưa, ngư dân vùng ven biển đã biết tận dụng nguồn lợi tự nhiên, khai thác tiềm năng của biển để đảm bảo sinh kế, đồng thời góp phần tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo mà Hải đội Hoàng Sa là minh chứng rõ nét cho tinh thần ấy.
Thực hiện lời dạy của Bác “Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ”. Lời dạy của Người mãi thành tuyên ngôn khắc ghi trên lá cờ truyền thống của ngành 65 năm qua. Các thế hệ lãnh đạo của ngành như các đồng chí Lê Duy Trinh, Nguyễn Trọng Tỉnh, Hoàng Hữu Nhân, Võ Chí Công, Nguyễn Quang Lâm, Đỗ Chính, Nguyễn Tấn Trịnh, Tạ Quang Ngọc, Cao Đức Phát, Nguyễn Xuân Cường, Lê Minh Hoan cùng cán bộ, công chức, viên chức, ngư dân, lao động toàn ngành đã bền bỉ phấn đấu, từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển từ một lĩnh vực sản xuất nhỏ, vươn lên thành một ngành kinh tế mũi nhọn quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước.