| Hotline: 0983.970.780

Công trình thủy lợi ngăn mặn, giữ ngọt vùng Bán đảo Cà Mau

Thứ Năm 08/12/2022 , 08:26 (GMT+7)

CÀ MAU Nhiều công trình thủy lợi vùng bán đảo Cà Mau phát huy được hiệu quả, góp phần ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân.

Các tỉnh vùng Bán đảo Cà Mau chủ động xây dựng nhiều công trình thủy lợi ứng phó BĐKH. Ảnh: Trọng Linh.

Các tỉnh vùng bán đảo Cà Mau chủ động xây dựng nhiều công trình thủy lợi ứng phó với biến đổi khí hậu. Ảnh: Trọng Linh.

Linh hoạt chuyển đổi sản xuất để thích ứng

Tỉnh Cà Mau là địa phương chịu tác động của nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, xâm nhập mặn và nước biển dâng. Để ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, Cà Mau đã chủ động xây dựng nhiều giải pháp ứng phó, trong đó ưu tiên xây dựng các công trình, giải pháp phi công trình phục vụ sản xuất, sinh hoạt của người dân.

Ông Tô Quốc Nam, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Cà Mau chia sẻ: Bán đảo Cà Mau là một trong những vùng chịu tác động nặng nề nhất bởi hạn hán, xâm nhập mặn và nước biển dâng. Theo thống kê, từ năm 2010 đến nay, bình quân nước biển dâng cao trung bình khoảng 10cm/năm. Cụ thể, diện tích bị nước mặn xâm nhập hầu như toàn tỉnh Cà Mau, trừ vùng U Minh Hạ và một phần của huyện Trần Văn Thời.

Theo đó, diện tích sản xuất lúa của nông dân tại các vùng ngọt cũng bị ảnh hưởng rất lớn và diện tích bị thu hẹp dần. Trước tình tình trên, ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau đã quy hoạch chuyển đổi sản xuất. Trong đó, diện tích sản xuất lúa không hiệu quả được chuyển sang nuôi tôm hoặc sản xuất một vụ lúa trên đất nuôi tôm.

Theo quy hoạch hệ thống thủy lợi, tỉnh Cà Mau được chia làm 2 vùng, bao gồm vùng Bắc Cà Mau (được chia làm 5 tiểu vùng), thuộc hệ sinh thái ngọt với tổng diện tích 204.000ha và vùng Nam Cà Mau (được chia làm 18 tiểu vùng), thuộc hệ sinh thái mặn - lợ với tổng diện tích 314.000ha. Đến thời điểm hiện nay, vùng Bắc Cà Mau đã đầu tư hoàn chỉnh được tiểu vùng 2 và 3; vùng Nam Cà Mau đầu tư được các tiểu vùng 2, 3, 5, 10, 17, 18, còn lại các tiểu vùng khác của 2 vùng chỉ đầu tư bờ bao tiểu vùng là chính (chưa khép kín).

IMG_0571

Một trong những công trình ngăn mặn, giữ ngọt tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Ảnh: Trọng Linh.

Hiện nay, biến đổi khí hậu đã tác động tiêu cực đến đời sống của người dân tỉnh Cà Mau, nhất là nước sạch nông thôn. Trước thực tế trên, Cà Mau đã xây dựng nhiều giải pháp như dự trữ, sử dụng nguồn nước mưa, khai thác nước ngầm để phục vụ sinh hoạt. Tuy nhiên, khai thác nước ngầm sẽ gây ra sụt lún đất. Cụ thể, mùa khô 2019 – 2020, toàn tỉnh Cà Mau đã có hơn 1.000 vị trí sạt lở, sụt lún đất tại huyện Trần Văn Thời.

Thủy lợi khép kín từng tiểu vùng

Ông Trần Quốc Nam, Giám đốc Trung tâm Quản lý Khai thác công trình thủy lợi tỉnh Cà Mau cho biết: Để đảm bảo công tác ngăn mặn, chống tràn, chống hạn, Cà Mau đã chủ động nâng cấp, sửa chữa bờ bao. Đến nay, hệ thống kênh mương toàn tỉnh đã được thông thoáng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Thời gian tới, tỉnh sẽ tiếp tục tập trung đầu tư di tu sửa chữa bờ bao để đảm bảo công tác ngăn triều cường, xâm nhập mặn đối với vùng Nam Cà Mau; ngăn mặn, chống tràn đối với vùng ngọt, đặc biệt là đối với vùng ngọt Trần Văn Thời. 

Theo ông Nam, đối với hệ thống thủy lợi của tỉnh Cà Mau, chỉ có đầu tư khép kín thì khi vận hành, khai thác mới thực sự đem lại hiệu quả, nếu đầu tư mà hệ thống thủy lợi còn hở thì không thể nào vận hành đem lại hiệu quả. Thời gian qua, Cà Mau cũng đã tập trung đầu tư nhiều công trình thủy lợi trọng điểm, tuy nhiên nguồn vốn có hạn, đầu tư dàn trải, địa phương nào cũng yêu cầu được đầu tư, do đó chưa làm đến nơi đến chốn, dẫn đến hiệu quả chưa cao.

Do đó, muốn đầu tư hệ thống thủy lợi đem lại hiệu quả cao, phải đầu tư khép kín tập trung, không chỉ khép kín ở góc độ tiểu vùng mà trong các tiểu vùng cũng cần tiến hành quy hoạch, lập dự án cụ thể trong tiểu vùng đó. Ví dụ trong tiểu vùng đó có bao nhiêu ô thủy lợi, phải quy hoạch rõ ô nào, khu vực nào thì phục vụ cho một vụ lúa trên đất nuôi tôm, khu nào chuyên trồng lúa, khu nào nuôi tôm, khu nào nuôi tôm công nghiệp…, từ đó mới có thể chủ động sản xuất cho từng khu, từng tiểu vùng.

Ông Trần Quốc Nam, Giám đốc Trung tâm Quản lý khai thác công trình thủy lợi tỉnh Cà Mau chia sẻ với Báo NNVN. Ảnh: TL.

Ông Trần Quốc Nam, Giám đốc Trung tâm Quản lý Khai thác Công trình thủy lợi tỉnh Cà Mau chia sẻ với Báo NNVN. Ảnh: TL.

Khi hệ thống thủy lợi được đầu tư khép kín với tiểu vùng vài chục ngàn ha thì cần đầu tư các hệ thống cống và bờ bao bên ngoài, bên trong đan xen nên việc lập dự án đầu tư các ô thủy lợi bên trong cần cụ thể từng cây trồng, vật nuôi mới có thể chủ động và mang lại hiệu quả.

Hiện nay, vùng Nam Cà Mau có 18 tiểu vùng, nhưng mới chỉ khép kín được 4 tiểu vùng gồm tiểu vùng 2, 3, 5 và 10. Còn lại tiểu vùng 17, 18 chỉ mới đầu tư tương đối, chưa được khép kín. Đối với Bắc Cà Mau có 5 tiểu vùng, mới chỉ đầu tư khép kín được 2 tiểu vùng (tiểu vùng 2 và tiểu vùng 3), đây là tiểu vùng thuộc vùng ngọt hóa của 2 huyện U Minh và Trần Văn Thời.

Riêng tiểu vùng 3 của huyện Trần Văn Thời đã được tiến hành một số ô thủy lợi bên trong, kết hợp với các trạm bơm, đập đảm bảo khép kín trong tiểu vùng. Đối với tiểu vùng 3, hiện có 16 ô thủy lợi khép kín. Nhờ đó, người dân sản xuất trong tiểu vùng 3 rất chủ động từ nguồn nước đến mùa vụ, đặc biệt tránh tình trạng thiếu nước vào cuối vụ như trước đây.

“Trước đây, người dân sản xuất theo tập quán, sản xuất lúa vào vụ 2 thì phải chờ đến tháng 10 âm lịch mới tiến hành gieo sạ. Nhưng từ khi các ô thủy lợi được đầu tư xây dựng, người dân có thể chủ động gieo sạ trước, không phải đợi đến tháng 10 mới gieo sạ như trước đây", ông Nam cho biết.

Empty

Vùng ranh mặn - ngọt của huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Ảnh: Trọng Linh.

Hiện nay, toàn tỉnh Cà Mau có 186 cống thủy lợi, 10 ô thủy lợi, trong năm 2022 đã tiến hành duy tu sửa chữa gồm 101 công trình. Trong đó, sửa chữa bờ bao 34 công trình, sửa chữa cống 11 công trình và nạo vét 30 công trình với tổng kinh phí 110 tỉ đồng.

Phát huy tiềm năng cống Âu thuyền Tắc Thủ

Trong danh mục dự án thu hồi đất bổ sung năm 2022 tại Cà Mau, đáng chú ý có việc thu hồi đất Dự án cụm công trình Tắc Thủ và các công trình thủy lợi ven biển Tây với diện tích hơn 1,2ha tại huyện Thới Bình và TP Cà Mau. Cụm công trình từng nhận được sự kỳ vọng rất lớn của nhân dân địa phương trong việc kiểm soát ngọt hóa vùng bán đảo Cà Mau nhưng do nhiều nguyên nhân, công trình không phát huy được công năng, hiệu quả, gây lãng phí lớn.

Đến nay, khi cống Cái Lớn - Cái Bé (tỉnh Kiên Giang) đưa vào vận hành hiệu quả, Bộ NN-PTNT tiếp tục triển khai giai đoạn 2 nhằm phát huy công trình liên vùng để kiểm soát mặn - ngọt.

Theo quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án cụm công trình Tắc Thủ và các công trình thủy lợi ven biển Tây của Bộ NN-PTNT, dự án giai đoạn 2 sẽ mở rộng cống, sửa chữa Âu thuyền Tắc Thủ (cũ) và xây mới một âu thuyền, đầu tư cụm công trình từ Âu thuyền Tắc Thủ đến cống Cà Mau.

Dự án do Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng thủy lợi 10 làm chủ đầu tư, tổng mức đầu tư dự kiến hơn 700 tỷ đồng. Khi hoàn thành, cụm công trình liên hoàn sẽ giúp chủ động kiểm soát mặn, điều tiết nguồn nước cho vùng phía nam sông Cái Lớn và vùng Bắc Cà Mau.

z3233679197933_2880094854653dd431badfe27de2cbe0

 Cống Cái Lớn - Cái Bé (tỉnh Kiên Giang) đưa vào vận hành hiệu quả. Ảnh: Đào Trung Chánh.

 

Tối ưu hóa các công trình thủy lợi

Trước tác động của biến đổi khí hậu trong những năm gần đây, tỉnh Bạc Liêu đã được đầu tư xây dựng nhiều công trình thủy lợi để phục vụ sản xuất nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng "thuận thiên". Từ khi xây dựng và đưa vào khai thác cống âu thuyền Ninh Quới tại huyện Hồng Dân, đây được xem là một trong những công trình giữ ngọt, ngăn mặn hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của người dân tại vùng bán đảo Cà Mau từ năm 2019 đến nay.

Ông Nguyễn Văn Thới, Chủ tịch UBND huyện Hồng Dân cho biết: Hồng Dân có diện tích canh tác lúa - tôm khoảng 24.700ha và xác định đây là mô hình sản xuất bền vững, hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, mô hình lúa - tôm đã phát huy được hiệu quả bền vững, nhất là vùng chuyển đổi lúa trên đất nuôi tôm.

Empty

 Cống âu thuyền Ninh Quới đưa vào vận hành đã góp phần ngăn mặn, trữ ngọt cho các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau và Hậu Giang. Ảnh: Trọng Linh.

Trong các công trình điều tiết mặn - ngọt phục vụ cho vùng chuyển đổi, nhất là từ khi cống âu thuyền Ninh Quới đưa vào vận hành, đã góp phần ngăn mặn, trữ ngọt cho huyện Hồng Dân nói riêng cũng như các tỉnh lân cận như Sóc Trăng, Cà Mau và Hậu Giang. Năm 2022, các công trình thủy lợi của tỉnh Bạc Liêu đã phát huy rất hiệu quả, đảm bảo được nước mặn cho vùng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn.

Trước đó, Bộ NN-PTN đã có quyết định đầu tư bằng nguồn vốn trung hạn 2021 – 2025 xây dựng mới các cống dự án phân ranh mặn - ngọt trên tuyến quốc lộ Nam sông Hậu (huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng) gồm có âu thuyền Rạch Mọp và 10 cống khác với kinh phí 900 tỷ đồng.

Xem thêm
Việt Nam chưa đủ thông tin đánh giá tác động của dự án Funan Techo

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định Việt Nam chưa đủ thông tin để có thể đánh giá tác động của dự án Funan Techo.

Bắc Kạn cần hướng đến sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững

FAO tại Việt Nam đánh giá, các hợp tác xã, tổ hợp tác tại tỉnh Bắc Kạn đã cải thiện năng lực tổ chức sản xuất, có nhiều mô hình hiệu quả, thân thiện với môi trường.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Cựu binh Đồi A1 & ký ức 'máu trộn bùn non'

Tròn 70 chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng những đồng đội, những nắm cơm, những chiến hào 'máu trộn bùn non'… vẫn còn mãi trong tâm trí nhà giáo ưu tú Đỗ Ca Sơn.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm