Mẹ tôi bảo:
Trước khi Nhật đảo chính Pháp (khoảng những năm bốn mươi của thế kỷ trước) các bác tôi kéo cả về thành phố Hà Nội, mỗi người chọn một nghề…
Trải qua năm tháng thời gian, chẳng ai còn giữ được nghề gì ngoài nghề… buôn bán! Cho đến nay họ trở thành những người giàu có trong các phố cổ Hà Nội. Riêng cậu tôi lại chọn quê nhà. Ông ngoại tôi bảo: "Thây kệ nó”. Trước khi nhắm mắt xuôi tay ông ngoại tôi để lại cho cậu tôi một khoản tiền thừa kế lớn nhất trong số bảy, tám anh chị em trong nhà. Bác cả bảo: “Giàu con út, khó con út”. Còn lại ngôi nhà ngói đại khoa của ông ngoại thì cậu tôi một mực từ chối - Ông ngoại tôi vốn là quan tri phủ được bổ nhiệm sau khi học xong trường hậu bổ. Lúc nghỉ hưu ông ngoại tôi về quê an trí tuổi già, ông tôi làm ngôi nhà này - Cậu tôi bảo: Cậu là con thứ không được lấy làm của riêng, nên để ngôi nhà cho bác cả quản lý, cho anh em quy tụ nhân ngày giỗ chạp…
Cậu tôi mang tất cả tiền bạc ra tậu một khoảnh đất ở rìa làng, khoảnh đất chiếm cả một trái đồi. Vài năm sau cảnh trang viên trên vườn dưới ao làm cho cả làng phải sửng sốt. Cậu tôi thành người nổi tiếng Xứ Đoài (nay thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội). Làm vườn, cậu tôi là người trồng “rau Tây” đầu tiên trong vùng. Khoai tây, cải bắp, súp lơ, xu hào… vốn trước đây nghe nói vẫn được đóng trong các thùng gỗ thông, chở bằng tàu thuỷ từ Pháp sang, giá đắt như cắt cổ và thường chỉ là những món sang trọng trong các gia đình giàu có, giờ đã thấy cậu tôi bày bán ở các chợ quê…
Rồi cậu đột ngột mất. Mỗi lần nhắc đến cậu, mẹ tôi thường kể về chuyến đi xe lửa của cậu tôi vào tận Tuy Hoà đem giống mía về trồng. Mía Tuy Hoà rất đặc biệt, lúc được nước các gióng mía căng mọng và vàng óng ả. Khẽ chích mũi dao vào thân mía, vết nẻ chạy dọc đốt. Rồi… nước mía ứa ra gặp gió hanh se lại trong suốt như một giọt hổ phách, ngọt lịm như mật ong. Tối tối quây quần bên mẹ, nghe mẹ kể chuyện “Ngày xưa…” lòng tôi bồi hồi, thổn thức theo bước chân người cậu ruột trên khắp mọi nẻo đường, trước khi cậu chọn cho đời mình một thứ nghề mà cả nhà, cả làng chẳng ai ngờ. Đó là nghề làm vườn ở vùng trung du heo hút và nghèo khó.
Tôi lớn lên, mảnh vườn xưa tiêu điều xơ xác, nó được chia cho hơn chục hộ trong làng sau “cải cách ruộng đất”. Không ai làm vườn được như cậu tôi ngày trước. Tôi ngẩn ngơ nhìn, đắm chìm trong hoang vắng mà nhớ về những ngày tháng qua. Chỉ còn duy nhất một nếp nhà tranh ba gian, một vệt đường mơ hồ trên mặt đất ngờm ngợp cỏ dẫn đến trước sân nhà. Đó là nhà của mợ tôi, ngôi nhà được chia trên phần đất của cậu để lại. Mợ tôi héo hắt trong cảnh goá bụa với đàn con lít nhít, chúng đang gom lá rụng trong vườn nhen nhóm cho bữa cơm chiều đạm bạc.
Tôi quay về, gió tháng tám lồng lộng thổi trên đầu, những tàu cau oằn oại vật mình trong gió. Song, những thân cau vẫn thẳng tắp xếp hàng, mấy chục gốc cau chi chít quả, những buồng cau xanh rớn như thách thức với thời gian. Phải chăng đó là tất cả những gì cậu tôi còn để lại trên mảnh đất này. Thật không ngờ gia đình mợ tôi vượt qua được khó khăn bằng chính những mùa cau.
Mẹ tôi về làm dâu quê chồng mang theo những mùa cau!
Nhà tôi làm ruộng nề nếp đã bao đời. Sau “hoà bình lập lại” mẹ tôi đem ruộng ra góp vốn để xây dựng hợp tác xã. Hết hợp tác nhỏ đến hợp tác to mẹ tôi quanh năm “đầu tắt, mặt tối”… Chúng tôi còn nhỏ dại nên vẫn được mẹ cho đi học. Nhà tôi luôn thiếu lao động. Suốt một thời gian dài lúc chia lúa, chia khoai nhà người ta gánh thì nhà mình chỉ có… bưng. Biết bao nhiêu chuyện xảy ra trong quãng thời gian niên thiếu đầy lo lắng ấy. Nhưng in đậm trong ký ức tôi vẫn là những mùa cau!
… Sáng ấy, tôi dậy sớm ra sân, sương giá tháng mười bay mù mịt khắp làng. Cái lạnh đầu mùa như quấn lấy hai ống chân. Trong bếp, lửa rơm bập bùng hắt một vệt dài trên mặt sân gạch Bát Tràng nâu bóng. Khói rơm âm âm toả một hương vị nồng nàn mùa vụ. Trong tiếng lịch xịch sôi của nồi cháo lợn, mẹ bảo: “Được mùa lúa, úa mùa cau”. Rồi mẹ ngậm ngùi: Nhà mình năm nào cũng mất mùa riêng! Những sáng sau đó cây đèn toạ đăng bằng đồng bạch được thắp lên. Cây đèn mà trước đây mỗi năm chỉ có vài lần dùng đến vào những ngày quan trọng trong nhà. Dưới ánh đèn, bốn năm anh em tôi mỗi đứa một việc thích hợp với từng lứa tuổi, chính xác và hoàn hảo trong một dây chuyền bổ cau…
Đây là cau sung của vùng Thanh Sơn - Phú Thọ, thứ này quả nhỏ nhưng sai nhung nhúc như chùm sung, da xanh như lá dong. Đây là cau mã lửa vùng núi Chẹ của huyện Ba Vì. Buồng cau mã lửa nhìn vàng rực, khi róc vỏ nửa quả cau ửng hồng như vừa chín tới. Đây là cau trái vang vùng bên kia sông Hồng mang sang. Cau trái vang sau khi tiễn chũm (bỏ một phần phía dưới quả cau) nhìn quả cau như những cái chuông nhỏ. Cau này quả to, “dừa” dày, khi ăn trầu người ăn có cảm giác ngọt lừ nơi đầu lưỡi… Cứ thế năm này qua năm khác, các lái (người buôn cau) đưa cau từ các nơi về. Không khí làng quê nhộn nhịp và sôi động cùng với biết bao chuyện kỳ thú của mỗi vùng đất.
Dao bổ cau nhỏ và vuông vắn như những lá bài tam cúc. Riêng mẹ tôi rất cẩn thận, mẹ gửi các bà xuôi hàng chuyến về tận phố Sinh Từ - Hà Nội mua. Dao sắc như nước, cầm không vững là sấn ngay vào tay! Vào việc mẹ tôi đánh màu (cắt cau ra khỏi buồng), công việc này đòi hỏi người làm phải có một nhát cắt dứt khoát. Phần dừa (cuống cau) rất giòn nên không được để vỡ, nếu vỡ miếng cau khô sẽ không đẹp. Mẹ tôi làm nhanh và khéo, chỉ nghe thấy tiếng sần sật ngọt xớt. Chúng tôi bắt đầu róc vỏ, những bàn tay thoăn thoắt lột vỏ cau, động tác mềm mại như múa. Khi cái hanh hao làm cho cau ráo vỏ là bắt đầu bổ cau.
Mẹ tôi bảo trên đời có ba việc khó:
Thứ nhất là cau bổ ba
Thứ hai ỏm trám, thứ ba lộn chồng
Năm này qua năm khác, những mùa cau qua đi, chúng tôi lớn lên trong những lời răn dạy về đạo lý mộc mạc của mẹ. Tang tảng sáng những nong cau đã bổ được đưa lên giàn, lên mái nhà, lên bất cứ chỗ nào có ánh nắng. Những hôm trời khô ráo, cau được phơi sương ngoài trời cả đêm. Những mẻ cau này hạt đỏ tươi, nhìn miếng cau vênh lên như những chiếc thuyền mui rất vui mắt. Bất cứ quả cau nào nếu bổ đúng chỗ khi phơi khô sẽ được hai miếng cau đậu, nếu không đúng chỗ thì chỉ có một (cau đậu là cau không bị long hạt ra khỏi vỏ). Xưa nay trong nghề bổ cau rất ít người có biệt tài ấy, kể cả những người suốt đời gắn với nghề trầu vỏ. Chẳng hiểu sao với tôi khi cầm quả cau trên tay thì hình như có linh tính thầm mách bảo để quyết định đặt nhát dao vào một cách dứt khoát. Khi những miếng cau xoè ra trong lòng bàn tay như một cái hoa vừa nở thì mọi người chỉ còn cách thốt lên ngạc nhiên: “Đậu rồi”!
Sau khi phơi cau ba bốn nắng thì dồn cau lại để sấy diêm sinh. Sau một đêm sấy là đóng cau vào chum, vào vại. Miệng chum lót lá chuối khô, trên đậy một khoanh gỗ tròn cắt ngang như một cái thớt lớn để chống gián, mối, chuột bọ… Mẹ tôi bảo: “Cho dù bổ ba, bổ tư, hay bổ năm tuỳ theo độ to nhỏ của quả cau, nhọc nhằn một nắng hai sương, xô đi xô lại mỗi quả cau chỉ được lãi có một miếng”. Tôi nhìn miếng cau khô bé xíu tỏ vẻ không bằng lòng vì sốt ruột, nhưng tôi đâu có ngờ đó là bài học đầu tiên trong đời mẹ dạy tôi về sự kiên trì. Bài học ấy có lẽ theo anh em tôi đi suốt cả cuộc đời. Rất nhiều lần chúng tôi phải biết ơn mẹ về những điều tưởng chừng như đơn giản ấy!
Có những năm cau được mùa, buồng cau nào cũng sai trĩu trịt. Nhìn những buồng cau mẹ tôi ngậm ngùi: “Được mùa cau, đau mùa lúa”. Năm ấy, bán mấy chục chum cau khô mà lời lãi chẳng được bao nhiêu. Có năm mới tháng tám âm lịch mà sương muối đã phủ trắng cây cối trong vườn, trầu không đổ đốt chết rục rạc rơi xuống mặt đất như nắm xương người hủi. Những quả cau hương nhỏ như đầu ngón tay đã rụng vàng cả gốc, năm ấy cau khô bán chạy lắm. Áp Tết Nguyên đán các bà buôn chuyến từ Hà Nội lên, họ xuống xe ở cái bến “xép” đầu làng, mang từng chồng những cái ró bụng bò (đồ đựng đan bằng cói) về nhà tôi như một lời ước hẹn. Nhìn các bà, các chị quần lụa đen xát xi, áo nâu dài đồng lầm, khăn đen tuyết nhung rẽ ngôi lệch mà như thấy cả một thời buôn bán phong lưu nề nếp…
Những cái bát đàn trưng bột nếp hoà nước vôi trong (đây là một loại hồ dán hạt cau long vào vỏ cau để làm thành một miếng cau đậu) được bày trên những lá chiếu đôi cạp liền, trải suốt ba gian nhà ngoài ra đến tận hiên. Mẹ tôi phải nhờ mấy bà hàng xóm sang dán cau giúp. Các bà đã khéo léo gắn những hạt cau long vào những miếng cau. Những tiếng đếm rào rào, kèm theo những câu chuyện thú vị vui vẻ mà chằng bao giờ lầm lẫn. Em gái út tôi chẳng biết nó học ở đâu mà đếm cau như hát đồng dao làm cho các bà, các chị cứ ngây ra nhìn rồi lắc đầu lè lưỡi:
… Hai mươi hai mốt
Cau này rất tốt
Ba sáu ba bảy
Miếng cau này dài
Sáu ba sáu tư…
Mẹ tôi bật cười rồi đem cân nghìn cau của nó so với nghìn cau của mẹ vừa đếm, mẹ phải bù vào cái phần đếm “cá con” mà nó vừa tạo ra. Cau nhà tôi bổ bằng nhau chăn chắn như chỉ có một tay bổ. Mỗi nghìn cau bao nhiêu cân và ngược lại mỗi cân bao nhiêu miếng cau đều như nhau nên khi giao hàng bán thế nào mẹ cũng bán được. Đầu mùa bổ được bao nhiêu mớ (vạn) cuối vụ đã biết được lời lãi. Cân đối với lương thực mẹ đã biết được việc thiếu đủ ăn trong nhà.
Rất nhiều năm như thế, mẹ tảo tần lo toan, chúng tôi lớn lên lúc nào không biết. Khi đã cầm vững cái đốc cày trong những kỳ nghỉ hè, tôi như một xã viên thực thụ. Năm ấy trong một kỳ tổng kết sau một vụ mùa thắng lợi, bữa cơm tập trung liên hoan ở nhà ông tổ trưởng sản xuất kết thúc vào lúc trời đã ngả sang chiều. Mọi người ngồi bên nhau, bên những bát chè tươi sóng sánh. Tiếng điếu cày roen roét vang lên lúc chỗ này, lúc ở chỗ kia. Họ nói chuyện mùa màng, cưới gả, giỗ chạp… Những người đàn bà lặng lẽ nhai trầu. Có lẽ hôm đó cô láng giềng của tôi tập ăn miếng trầu đầu tiên trong đời. Em ngả đầu vào vai mẹ như muốn giấu cặp mắt long lanh. Chẳng biết trầu cay cho má em hồng, trầu say cho môi em mọng, cho em in đậm bóng hình trong tôi ngay thủa đầu đời!
… Chiến tranh kết thúc, tôi trở về làng, em đã theo chồng về làm dâu xứ người. Tôi không trách em nhưng chỉ buồn cho mình sao về muộn. Nhưng mãi mãi trong tôi chẳng bao giờ phai mờ những tháng năm đẹp đẽ ấy! Những mùa cau qua đi, mẹ tôi đã về nơi chín suối, nhà tôi vẫn rộn rã mỗi khi mùa cau về, mà không riêng gì nhà tôi, cả làng nhộn nhịp trong một thương trường với những chuyến cau xuôi ngược… Tôi trở thành một người đàn ông trong làng như ngàn đời nay thường vẫn thế. Tôi vẫn nhớ về em, mơ đến miếng trầu têm cánh phượng đã một lần lỗi hẹn…