| Hotline: 0983.970.780

Giải pháp căn cơ giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt

Thứ Hai 17/05/2021 , 08:57 (GMT+7)

Bình Thuận là một tỉnh khô hạn nhất nước nên vào mùa khô hay thiếu nước sinh hoạt. Để giải quyết tình trạng trên cần đầu tư các công trình cấp nước quy mô lớn.

Nỗ lực cấp nước sinh hoạt

Theo số liệu điều tra về Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá nước sạch và vệ sinh môi trường đã được UBND tỉnh Bình Thuận công bố tại Quyết định số 959 ngày 19/4/2021, tính  đến cuối năm 2020, khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh có 62 công trình cấp nước tập trung với tổng công suất cấp nước 84.020 m3/ngày, cung cấp cho 52,84% số hộ dân nông thôn sử dụng.

Các công trình cấp nước đều giao cho các đơn vị chuyên ngành nước quản lý, khai thác và sử dụng nên phát huy hiệu quả đầu tư, không có công trình nào bị hư hỏng, lãng phí.

Thời gian qua, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Bình Thuận nỗ lực cấp nước sinh hoạt cho người dân nông thôn. Ảnh: KS.

Thời gian qua, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Bình Thuận nỗ lực cấp nước sinh hoạt cho người dân nông thôn. Ảnh: KS.

Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Bình Thuận đang quản lý 38 công trình cấp nước tập trung, tổng công suất thiết kế 46.500m3/ngày, cung cấp cho hơn 65.000 hộ đấu nối sử dụng nước trên địa bàn 2 phường, 9 thị trấn và 54 xã trong tỉnh (ngoại trừ huyện Tuy Phong).

Theo Chi cục Thủy lợi Bình Thuận, hầu hết các công trình cấp nước tập trung do Trung tâm quản lý đều phát huy hiệu quả đầu tư, đảm bảo cung cấp nguồn nước sạch cho người dân sử dụng.

Tại công trình cấp nước Thuận Bắc (huyện Hàm Thuận Bắc), tổng công suất 8.160 m3/ngày, cung cấp cho khoảng 10.300 hộ sử dụng (chưa tính sử dụng chung) tại 1 thị trấn và 6 xã trên địa bàn huyện, từ khi công trình cấp nước này ra đời đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở vùng khô hạn Hàm Thuận Bắc. Nhiều người dân đã thoát cảnh sử dụng nước sông, hồ, giếng ngầm nhiễm phèn không bảo đảm vệ sinh và ảnh hưởng đến sức khỏe.

Người dân vùng nông thôn vui mừng khi có nước sạch sử dụng. Ảnh: KS.

Người dân vùng nông thôn vui mừng khi có nước sạch sử dụng. Ảnh: KS.

Ông Trần Văn Liêm, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Bình Thuận, cho biết, thời gian qua, Trung tâm luôn nỗ lực thực hiện các giải pháp để tăng tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch, cũng như đảm bảo cấp nước sinh hoạt phục vụ người dân trong mọi thời tiết mưa lũ, khô hạn bằng cách thường xuyên theo dõi chất lượng nguồn nước thô, nước sau xử lý tại các công trình cấp nước.

“Có thể nói từ khi các công trình cấp nước đầu tư cho vùng nông thôn đi vào hoạt động đã giúp nâng cao tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch trên địa bàn tỉnh, nâng cao đời sống, bảo vệ sức khỏe người dân. Bên cạnh đó đã giúp tháo gỡ cho nhiều địa phương trong việc thực hiện tiêu chí 17.1 về tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch trong Bộ tiêu chí xây dựng xã NTM”, ông Liêm chia sẻ.

Giải pháp căn cơ giải quyết nước sinh hoạt vào mùa khô

Theo Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Bình Thuận, trong các năm qua, nhất là mùa khô năm 2015 – 2016 và 2019 – 2020, do biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino gây ra tình trạng hạn hán rất nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh làm suy giảm, cạn kiệt nguồn nước mặt và nước dưới đất. Từ đó, một số công trình cấp nước phải ngưng hoạt động.

Riêng mùa khô năm 2020, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Bình Thuận có 4 công trình cấp nước ngưng hoạt động hoàn toàn và 12 công trình ngưng luân phiên do nguồn nước thô từ các hồ thủy lợi và sông suối bị cạn kiệt. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng nước cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng cao. 

Để giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô ở Bình Thuận cần đầu tư công trình cấp nước công suất lớn. Ảnh: KS.

Để giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô ở Bình Thuận cần đầu tư công trình cấp nước công suất lớn. Ảnh: KS.

Do đó về giải pháp lâu dài để đảm bảo cấp nước sinh hoạt bền vững trên địa bàn tỉnh, theo ông Liêm, tỉnh cần nghiên cứu phương án đầu tư các công trình cấp nước có công suất từ 5.000 – 15.000 m3/ngày nằm kế cận các công trình thủy lợi có quy mô lớn hoặc sông lớn như hồ Sông Quao, hồ sông Móng – Ka Pét, sông La Ngà...

Như vậy, các các công trình mới đảm bảo có nguồn nước thô ổn định trong mùa khô hạn, giúp các nhà máy nước vận hành thường xuyên, liên tục, tránh bị gián đoạn, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện công tác bảo đảm an toàn về chất lượng nguồn nước thô cấp cho các nhà máy nước.

Trung tâm đề nghị Bộ NN-PTNT hỗ trợ tỉnh Bình Thuận tiếp tục tiếp nhận và triển khai thực hiện dự án “Nước sạch và vệ sinh nông thôn bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2025 vay vốn Ngân hàng thế giới”, cũng như tạo điều kiện giúp tỉnh đầu tư các công trình cấp nước có quy mô lớn trong giai đoạn từ 2021 – 2030 để giải quyết căn bản tình trạng thiếu nước sinh hoạt trên địa bàn nông thôn trong tỉnh trong các tháng mùa khô hàng năm.

    Tags:
Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm