Chi cục Trồng trọt, Bảo vệ thực vật và Kiểm lâm tỉnh Hậu Giang phối hợp với Công ty cổ phần Đại Thành vừa tổ chức hội thảo đánh giá kết quả thử nghiệm sản xuất giống lúa lai GS999. Mô hình được thực hiện trong vụ đông xuân 2024 - 2025 trên diện tích hơn 2ha tại hộ nông dân Võ Văn Tuấn ở ấp 6, xã Vị Thắng, huyện Vị Thuỷ, Hậu Giang.

Các đại biểu dự hội thảo đầu bờ đánh giá kết quả thử nghiệm sản xuất giống lúa lai GS999 trong vụ đông xuân 2024 - 2025 tại Vị thủy, Hậu Giang. Ảnh: Trung Chánh.
Mô hình áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong quá trình canh tác do Công ty cổ phần Đại Thành cung cấp thiết bị, máy nông nghiệp; áp dụng biện pháp sạ thưa với lượng lúa giống chỉ 30kg/ha bằng thiết bị bay không người lái - thấp hơn nhiều so với tập quán sản xuất tại địa phương (từ 100 - 150kg/ha).
Ruộng mô hình thực hiện quản lý sinh vật gây hại theo nguyên tắc IPM và quản lý nước được áp dụng theo phương pháp tưới ngập - khô xen kẽ; sử dụng phân bón hữu cơ DTOGNFIT, đồng thời 20 - 30% lượng bón phân hoá học so với ruộng đối chứng tác theo tập quán truyền thống của nông dân.
Theo kết quả đánh giá, giống lúa lai GS999 sản xuất thử nghiệm trong vụ đông xuân có thời gian sinh trưởng ngắn, khoảng 95 ngày. Giống lúa này thích nghi tốt với điều kiện tại địa phương, đẻ nhánh khỏe, bộ lá đứng, thân cây cao, cứng cây và chống đỗ ngã tốt, trổ bông tập trung đồng loạt, khả năng chống chịu với sâu bệnh tốt.
Về năng suất lý thuyết, ruộng canh tác giống lúa lai GS999 giảm 20% phân bón hoá học đạt gần 9,4 tấn/ha, ruộng giảm 30% phân bón hoá học đạt 8,9 tấn/ha, ruộng canh tác theo tập quán truyền thống đạt 9 tấn/ha. Lợi nhuận chênh lệch của ruộng giảm 20% phân bón hoá học cao hơn 3,6 triệu đồng/ha so với ruộng canh tác theo truyền thống nhờ giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân bón, giảm số lượng và số lần phun thuốc bảo vệ thực vật.
Mô hình sử dụng máy bay từ gieo sạ đến bón phân, phun thuốc, giúp giảm chi phí công lao động, bảo vệ sức khỏe người trực tiếp sản xuất, giải quyết được tình trạng khan hiếm lao động. Sử dụng phân bón hữu cơ DTOGNFIT giúp nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện chất lượng nông sản, giảm thiểu các mối nguy từ canh tác truyền thống như lạm dụng phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, mất cân bằng sinh thái, suy thoái đất...