| Hotline: 0983.970.780

Hướng tới nền “kinh tế xanh”

Thứ Năm 30/06/2011 , 13:46 (GMT+7)

Ngày 28/6, tại Hà Nội, Bộ NN-PTNT phối hợp với Trung tâm Đa dạng Sinh học (ĐDSH) ASEAN, Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và Chương trình Sáng kiến giảm nghèo-môi trường của UNDP khu vực châu Á Thái Bình Dương tổ chức hội nghị khu vực Đông Nam Á (ASEAN) với chủ đề: “Kinh tế học của ĐDSH và các hệ sinh thái hướng tới nền Kinh tế xanh” (TEEB).

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hứa Đức Nhị cho biết: VN đã quy hoạch 16,2 triệu ha cho phát triển rừng, chiếm hơn 50% diện tích đất tự nhiên của cả nước. Việc quy hoạch một diện tích rất lớn như vậy cho phát triển rừng là một quyết tâm chính trị rất lớn cho bảo vệ môi trường sinh thái và ĐDSH.

Tuy nhiên, theo ông Nhị, việc bảo vệ và phát triển rừng luôn đứng trước thách thức lớn, nhất là đối với nước đang phát triển như VN, khi mà phần lớn dân cư vẫn sống dựa vào rừng và nông nghiệp. Trong khi cây lâm nghiệp luôn kém sức cạnh tranh so với các cây trồng nông nghiệp khác. “Cơ chế chính sách của Chính phủ về phí khoán bảo vệ rừng, việc đầu tư cho phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng và hỗ trợ cho phát triển sản xuất cùng hàng loạt cơ chế hỗ trợ cho phát triển miền núi là đáng khích lệ. Thêm vào đó, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng thực sự là cơ chế mở cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng. TEEB là vấn đề rất mới mẻ, chúng ta hy vọng hội nghị không chỉ làm rõ những vấn đề về khái niệm, mà còn chỉ ra những cách thức để đưa sáng kiến này vào cuộc sống” - ông Nhị nói.

Theo TS Juegen Hess, GĐ Chương trình quản lý tài nguyên thiên nhiên của GIZ thì việc chưa định giá được giá trị kinh tế của các hệ sinh thái là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự mất mát rừng và ĐDSH. Các tổn thất cho phúc lợi của con người trên toàn thế giới được ước tính lên tới hàng nghìn tỷ USD trong vốn tự nhiên mỗi năm. Người nghèo đang bị ảnh hưởng nhất bởi vì sinh kế và thu nhập của họ phụ thuộc phần lớn vào các hệ sinh thái. Các yếu tố tiêu cực bên ngoài của các hoạt động kinh tế cần được định lượng và công khai để giảm thiểu nó một cách thiết thực. Những lợi ích thu được từ dịch vụ hệ sinh thái phải được đảm bảo vượt xa chi phí ngăn chặn mất mát nó.

Đại sứ CHLB Đức tại VN cho biết, TEEB là nghiên cứu về giá trị kinh tế của các hệ sinh thái và ĐDSH để đánh giá được các thiệt hại kinh tế và các chi phí gia tăng do suy thoái hệ sinh thái và mất mát ĐDSH trên toàn cầu. Từ đó đề xuất các giải pháp tương ứng cho các nhà hoạch định chính sách, các doanh nhân.

TS Jyotsna Puri, Chương trình Môi trường Liên Hiệp quốc nhận định, VN đã đầu tư 1,1 tỷ USD cho việc phục hồi rừng ngập mặn tự nhiên, nhưng đã tiết kiệm được 7,3 tỷ USD đầu tư vào việc cứu hệ thống đê bao. Sáng kiến kinh tế xanh của UNDP đề xuất thế giới nên đầu tư khoảng 2% GDP toàn cầu vào 10 lĩnh vực chính có thể khởi đầy một giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế xanh sử dụng hiệu quả tài nguyên và giảm thiểu các-bon. Cần phải thúc đẩy đầu tư của các DN và tư nhân vào trồng rừng, Chính phủ VN phải hỗ trợ DN trồng rừng bằng cải cách chính sách. Rừng phải được đầu tư như một loại tài sản và quản lý rừng cần luôn đi cùng với hệ thống kế toán hiệu quả và minh bạch...

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Tỷ lệ tiêm vacxin phòng dại cho chó, mèo trung bình chỉ đạt 58%

Nhiều nơi không bố trí được cán bộ thú y để tiêm vacxin phòng chống dịch bệnh động vật nói chung, bệnh dại nói riêng.      

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm