TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN-PTNT), cho biết, hội thảo là hoạt động nằm trong khuôn khổ Dự án khu vực “mạng lưới nghiên cứu và tư vấn chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn cho các quốc gia tiểu vùng sông Mekong” (NARDT) do Quỹ Quốc tế về Phát triển nông nghiệp (IFAD) tài trợ.
Hội thảo là cơ hội để các thành viên mạng lưới NARDT, tổ chức quốc tế, đối tác cùng mối quan tâm... trao đổi, chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm và đề xuất các khuyến nghị, tư vấn chính sách phù hợp với các ưu tiên phát triển của ngành hàng lúa gạo trong khu vực.
Theo ông Thắng, dự án khu vực “mạng lưới nghiên cứu và tư vấn chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn cho các quốc gia tiểu vùng sông Mekong” được triển khai từ năm 2019, với cơ chế hợp tác rất linh hoạt.
Trong đó, tất cả các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong sẽ phối hợp để nâng cao chất lượng của chính sách về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Dự án sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân rộng, thể chế hóa những thực hành tốt, bài học kinh nghiệm, sáng tạo đổi mới từ mỗi quốc gia.
Trên cơ sở đó, tại hội thảo, các đại biểu đã thảo luận những vấn đề xoay quanh kết quả nghiên cứu về chuyển đổi hệ thống ngành hàng lúa gạo tại 3 quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mekong là Việt Nam, Lào, Campuchia.
Theo đại diện Viện Nghiên cứu Nông, Lâm nghiệp quốc gia Lào (NAFRI), ngành nông nghiệp chiếm 75% tổng lực lượng lao động và đóng góp 25,5% vào tổng sản phẩm quốc nội. Lúa gạo là cây lượng thực thiết yếu nhất tại Lào với tổng diện tích chiếm hơn 63% tổng diện tích canh tác của cả nước.
Lào là một trong những nước có mức tiêu thụ gạo bình quân đầu người cao nhất thế giới (206 kg/năm). Các nghiên cứu cho thấy, mức tiêu thụ gạo bình quân đầu người đang giảm dần ở Lào, đặc biệt là khu vực thành thị, nơi người dân có thu nhập cao hơn và lựa chọn lương thực đa dạng hơn.
Hầu hết nông dân Lào sản xuất nông nghiệp theo hình thức canh tác truyền thống. Do đó, trong bối cảnh chi phí thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học ngày càng tăng đã mang lại cho Lào lợi thế so sánh trong sản xuất thực phẩm sạch và an toàn với chi phí tương đối thấp.
Đại diện Viện Phát triển nguồn lực Campuchia (CDRI) kiến nghị: Hệ thống thủy lợi cần được đánh giá và cải thiện để đảm bảo khả năng cung cấp nước tưới trong mùa khô và chống hạn. Việc đánh giá chính sách nông nghiệp, đặc biệt là đối với cây lúa cần được tiến hành thường xuyên để đưa ra quyết định kịp thời cho việc cải tiến các chương trình.
Bên cạnh đó, cần cải thiện chuỗi giá trị lúa gạo thông qua tích hợp dọc, chẳng hạn như hợp đồng canh tác. Các dịch vụ khuyến nông cần được tăng cường, không chỉ để cung cấp kiến thức, kỹ thuật về canh tác mà còn hỗ trợ chiến lược tiếp thị, tiếp cận thị trường cho lúa gạo. Ngoài ra, cần thường xuyên đánh giá thị trường gạo thơm và gạo hữu cơ để kịp thời đưa ra các hành động chính sách trong tương lai...
Ông Rémi Nono Womdim, Trưởng Đại diện FAO tại Việt Nam, cho rằng: Hiện nay, giá lương thực tăng lên chưa từng có trong tiền lệ, giá thức ăn chăn nuôi, nhiên liệu... đều tăng, trong khi tình hình tài chính không mấy khả quan đã ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người dân trên toàn cầu.
Trong khi đó, ngành nông nghiệp vẫn phải giải quyết những thách thức về đói nghèo, suy dinh dưỡng, mục tiêu phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mekong phải giải quyết tận gốc những nguyên nhân gây nên đói nghèo, suy dinh dưỡng thông qua quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng...
Lúa gạo vẫn là cây lương thực rất quan trọng đảm bảo chủ quyền an ninh lương thực tại khu vực tiểu vùng sông Mekong. Chính vì vậy, việc chuyển đổi hệ thống ngành hàng lúa gạo sẽ tạo ra lộ trình tiến tới cải thiện được an ninh dinh dưỡng, lương thực cho hàng triệu người dân nghèo ở khu vực nông thôn.
Theo ông Rémi Nono Womdim, trong chiến lược hoạt động của mình, FAO sẽ nỗ lực hỗ trợ chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững thông qua quá trình chuyển đổi sang hệ thống sản xuất lương thực, thực phẩm bao trùm, hiệu quả, khả năng chống chịu cao, bền vững, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
Để hiện thực hóa được việc chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm, trong đó có hệ thống sản xuất lúa gạo, điều quan trọng là phải xây dựng được các đối tác hiệu quả, năng động, với các tác nhân, quy mô khác nhau, đẩy mạnh hợp tác công-tư trong việc tham gia vào quá trình nghiêm cứu chính sách, sản xuất, kinh tế và môi trường.
TS. Đặng Kim Sơn, Cố vấn vùng cấp cao Dự án NARDT, cho rằng: Hiện nay, một điểm chung của nông dân 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia là sản xuất chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán, nên sự hiện diện trong chuỗi giá trị, thị trường toàn cầu không đủ mạnh. Do đó, việc tổ chức lại sản xuất là yếu tố vô cùng quan trọng.
Đối với nông dân Việt Nam, quy mô đất canh tác hạn hẹp nên dù đã áp dụng nhiều biện pháp như tăng vụ, sử dụng khoa học kỹ thuật... để tăng năng suất thì hiệu quả kinh tế đem lại vẫn không đáng kể. Do đó, việc mở rộng quy mô sản xuất là việc cần làm đầu tiên, tiếp sau đó mới đến áp dụng cơ giới hóa, khoa học công nghệ...
Bên cạnh đó, nông dân Việt Nam cần phát triển theo chuỗi giá trị, trong đó tập trung xây dựng các vùng chuyên canh lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh lúa gạo xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, áp dụng các tiêu chuẩn truy suất nguồn gốc, nâng tầm thương hiệu.
Đối với nông dân Lào và Campuchia, việc cải thiện hệ thống thủy lợi là việc hết sức quan trọng trong tương lai. Đồng thời, hai quốc gia đang hạn chế về các doanh nghiệp xay xát, kinh doanh lúa gạo nên trước mắt cần phải phối hợp với các nước xung quanh để xuất khẩu được gạo. Tuy nhiên, đây là giải pháp trước mắt, về lâu dài cả hai nước phải tự mình xây dựng hệ thống doanh nghiệp để tiến ra thị trường thế giới.