Theo ông Bùi Tấn Thành, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Định, đến nay, trên địa bàn đã có 9.882 ha rừng trồng gỗ lớn của Công ty Cổ phần Năng lượng sinh học Phú Tài trồng hơn 3.000 ha, Công ty TNHH Lâm nghiệp Hà Thanh 1.917 ha, Công ty TNHH Trồng rừng Quy Nhơn 2.921 ha, Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn gần 725 ha, còn lại là của các hộ dân sống cạnh rừng.
Hiện Bình Định có khoảng 300 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có khoảng 150 doanh nghiệp là thành viên của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định. Mỗi năm, ngành gỗ Bình Định phải cần đến 1,2 triệu m3 gỗ tròn nguyên liệu, chiếm gần 80% trong đó là nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu, gỗ rừng trồng chỉ chiếm hơn 20%.
“Từ thực tế trên, Bình Định đề ra lộ trình trồng rừng gỗ lớn để vừa tăng giá trị cho gỗ rừng trồng, vừa để ngành chế biến gỗ xuất khẩu bớt lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Theo đề án phát triển cây gỗ lớn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2025, định hướng đến năm 2035 đã được UBND tỉnh phê duyệt, đến năm 2025, trên địa bàn toàn tỉnh sẽ có 10.000 ha rừng trồng gỗ lớn được trồng tập trung”, ông Thành cho hay.
Theo ông Lê Đức Sáu, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Bình Định, ngoài việc hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện quy trình, thủ tục đầu tư liên kết trồng rừng bền vững, đơn vị này còn tham mưu Sở NN-PTNT trình UBND tỉnh xem xét, trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ phát triển rừng trồng sản xuất cây gỗ lớn trên địa bàn tỉnh đến năm 2030.
“Theo đó, các tổ chức, cá nhân, hộ dân trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa rừng gỗ nhỏ sang trồng gỗ lớn được hỗ trợ bảo vệ rừng, cấp chứng chỉ FSC, hỗ trợ thiệt hại do nguyên nhân bất khả kháng… nhằm thực hiện hiệu quả đề án của UBND tỉnh về phát triển cây gỗ lớn trên địa bàn. Theo kế hoạch, đến năm 2025 Bình Định sẽ có 10.000 ha rừng gỗ lớn được trồng tập trung, đến năm 2030 diện tích rừng gỗ lớn sẽ tăng đến 50.000 ha”, ông Sáu cho hay.
Để phát triển rừng gỗ lớn, các doanh nghiệp, nông dân được ngành chức năng Bình Định hướng dẫn việc xác định lập địa phù hợp. Đất phát triển rừng gỗ lớn phải là đất thịt xốp, tầng đất dày từ 0,7m trở lên. Vùng đất trồng rừng gỗ lớn cần có khí hậu phù hợp, nằm độ cao dưới 600m so với mực nước biển. Người trồng rừng gỗ lớn còn được khuyến cáo nên chọn các giống keo lai, keo lá tràm, cây bản địa gồm sao đen, dầu rái, giáng hương, dổi… có nguồn gốc chất lượng.
Ông Cái Minh Tùng, Chủ tịch Công ty TNHH Lâm nghiệp Hà Thanh, đơn vị đang sở hữu 1.917 ha rừng gỗ lớn khẳng định: Rừng trồng gỗ lớn được trồng theo chu kỳ khai thác từ 8-10 năm không chỉ tăng năng suất, giá trị kinh tế rừng trồng mà lợi ích lớn nhất là bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu. Do đó, giá trị của việc trồng rừng sẽ lớn hơn rất nhiều nhờ mang tính bền vững.
Còn Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn thì đang phối hợp với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam nghiên cứu, chuyển giao công nghệ lâm nghiệp áp dụng trong trồng rừng keo thâm canh gỗ lớn; trồng thử nghiệm giống mới như cây sao đen, dầu tím để nâng cao chất lượng rừng trồng.
Xác định trồng rừng gỗ lớn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người dân, huyện miền núi Vĩnh Thạnh đang thí điểm xây dựng mô hình trồng rừng thâm canh, thu hoạch gỗ lớn gỗ lớn nhằm chuyển giao các dòng keo lai cấy mô giống mới AH1, AH7 và BV75 vừa được công nhận vào sản xuất.
“Từ năm 2022, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Vĩnh Thạnh, UBND xã Vĩnh Sơn phối hợp với đơn vị chức năng của tỉnh thực hiện mô hình trồng 40 ha rừng thâm canh gỗ lớn bằng giống keo lai cấy mô. Mô hình có 17 hộ dân ở các thôn: K2, K3, K4, K8 và làng Suối Đá tham gia. Sau 2 năm trồng, hầu hết diện tích rừng thuộc mô hình đều sinh trưởng, phát triển tốt”, ông Trần Công Quang, Phó trưởng phòng phụ trách Phòng NN-PTNT huyện Vĩnh Thạnh cho hay.
Ông Quang phân tích: Với rừng trồng khai thác chu kỳ 5-6 năm chỉ có thể bán làm cho các nhà máy chế biến dăm gỗ, viên nén hoặc bóc lấy ván; lợi nhuận bình quân từ 10-12 triệu đồng/ha/năm. Thế nhưng rừng trồng gỗ lớn có chu kỳ từ 10-14 năm, đường kính cây khi khai thác đạt khoảng 20cm trở lên, sản lượng gỗ đạt từ 180-220m3/ha. Rừng gỗ lớn có thể sử dụng làm nguyên liệu chế biến gỗ xuất khẩu có giá từ 1,6-2,4 triệu đồng/m3, tương đương 250 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân tăng đến 20 triệu đồng/ha/năm.
“Đó là chưa kể, nhiều lợi ích khác như tiết kiệm chi phí cây giống, giảm vốn đầu tư cho giai đoạn ban đầu, hạn chế suy thoái đất và bảo vệ môi trường rừng”, ông Trần Công Quang khẳng định.