| Hotline: 0983.970.780

Ngành điều nắm bắt cơ hội mới

Thứ Sáu 02/10/2015 , 06:35 (GMT+7)

Có thể nói, trong khi nhiều mặt hàng nông sản còn đang “tìm đường”, thì ngay từ năm 2006 ngành điều VN đã thành “cường quốc” khi XK nhân điều lớn nhất thế giới, hội nhập quốc tế sâu rộng với thị trường gồm trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Sau 26 năm tham gia XK (1988 - 2014), ngành điều Việt Nam khẳng định được vị thế, không ngừng phát triển lớn mạnh, chiếm lĩnh thị trường toàn cầu.

Có thể nói, trong khi nhiều mặt hàng nông sản còn đang “tìm đường”, thì ngay từ năm 2006 ngành điều VN đã thành “cường quốc” khi XK nhân điều lớn nhất thế giới, hội nhập quốc tế sâu rộng với thị trường gồm trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Trong những năm qua, điều là một trong số ít những ngành hàng nông sản chủ lực vẫn giữ được sự tăng trưởng tốt về XK. Năm 2015, trong bối cảnh nhiều mặt hàng gặp khó, thì ngành điều được dự báo sẽ đạt kim ngạch XK kỷ lục 2,5 tỷ USD!

Nhu cầu hạt gia tăng

Từ nhiều năm nay, trên thị trường thế giới, hạt điều được xếp vào giỏ hàng chung với các loại hạt khô và quả khô như hạnh nhân, óc chó, lạc, phỉ, mắc ca, dẻ, hồ đào, nho khô, táo khô… Giỏ hàng này gồm những thực phẩm có nguồn gốc thực vật, giàu dinh dưỡng và đặc biệt là rất phù hợp với nhu cầu ăn uống lành mạnh đang ngày càng gia tăng trên thế giới. Đó là nhu cầu sử dụng các thực phẩm có nguồn gốc thực vật, gần với tự nhiên, giàu dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe con người.

Theo ông Đặng Hoàng Giang, Phó Chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam (VINACAS), con người ngày càng quan tâm nhiều hơn tới sức khỏe. Thay vì chú trọng ăn no như trước đây, người ta đang chuyển sang ăn uống sao cho đảm bảo sức khỏe lâu dài. Vì thế, các trào lưu ăn kiêng đang ngày càng được phổ biến rộng rãi, như phương pháp ăn kiêng của khu vực Địa Trung Hải (ăn cá, các loại hạt khô, rau củ quả …).

Ở Việt Nam, tại các đô thị, những gia đình có điều kiện kinh tế cũng chú trọng nhiều hơn tới việc ăn uống đảm bảo sức khỏe. Và đây chính là cơ hội mở rộng thị trường cho giỏ hàng hạt khô và quả khô. Mà hạt điều đang nằm trong tốp những loại hạt khô được tiêu thụ nhiều nhất, phổ biến nhất.

Theo tính toán của các chuyên gia về hạt khô và quả khô, nhu cầu tiêu dùng nhóm hàng này đang gia tăng khoảng 10%/năm trên toàn cầu.

Trong khi đó, khả năng tăng diện tích cũng như sản lượng của các loại hạt khô nói chung, hạt điều nói riêng hiện đang thấp hơn nhiều so với sự gia tăng về nhu cầu. Riêng về hạt điều, sản lượng điều thô hàng năm trên thế giới hiện vào khoảng 2,7 triệu tấn.

Việt Nam và các nước trồng điều lớn khác, nhất là các nước châu Phi, đang cố gắng tăng sản lượng điều.


Ngành điều đang thực hiện nhiều giải pháp để nắm bắt các cơ hội mới

Nhưng theo nhận định của ông Đặng Hoàng Giang, sản lượng điều thô toàn cầu chỉ có thể tăng được trên dưới 5%/năm. Do đó, dư địa của thị trường thế giới vẫn còn khá nhiều cho hạt điều. Và trong những năm tới, việc tiêu thụ hạt điều vẫn rất ổn định.

Điều đáng chú ý, tuy nằm cùng giỏ hàng với nhiều loại hạt và quả khô, nhưng hạt điều ít bị cạnh tranh về mặt thị trường với các loại hạt, quả khô khác. Không những thế, việc tiêu thụ những loại hạt khô còn có tác động tương hỗ cho nhau.

Chẳng hạn, khi giá hạt hạnh nhân trên thị trường thế giới tăng thì giá hạt điều cũng tăng. Khi giá hạt hạnh nhân giảm, giá hạt điều cũng giảm … Các loại hạt khô lại không bị biến động nhiều về giá cả mỗi khi có biến động trên thị trường thế giới, bởi có khả năng bảo quản lâu từ 1-1,5 năm. Vì thế sự rủi ro về mặt thị trường đối với hạt khô nói chung, hạt điều nói riêng là không nhiều.

Thị trường của hạt điều Việt Nam cũng đảm bảo khá tốt cho việc giảm thiểu tính rủi ro. Bởi nếu như nhiều mặt hàng nông sản chủ lực khác đang phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc hay một vài thị trường lớn, thì đầu ra của hạt điều lại không phụ thuộc vào một thị trường nào.

Thị trường Mỹ hiện là lớn nhất của hạt điều Việt Nam nhưng cũng chỉ chiếm 31,5% về lượng và xấp xỉ 32% về giá trị XK điều của nước ta năm 2014. Ngoài Mỹ, EU và Trung Quốc là 3 thị trường lớn nhất hiện nay, hạt điều Việt Nam đã được XK tới trên 50 thị trường tại khắp các châu lục.

Tập trung phát huy lợi thế

Tất nhiên, những khi tình hình tài chính, kinh tế thế giới có những bất ổn lớn, khiến cho người tiêu dùng phải thắt lưng buộc bụng, giảm bớt chi tiêu, thì việc tiêu thụ hạt điều cũng sẽ bị ảnh hưởng, nhất là khi hạt điều chưa phải là thực phẩm mang tính thiết yếu, bắt buộc phải sử dụng hàng ngày như lương thực, thịt, rau …Vì thế, khi tính tới tiềm năng mở rộng thị trường trong những năm tới cho hạt điều, cũng cần tính tới điều này.

Mặt khác, khi Trung Quốc (là nước NK điều lớn) và nhiều nước châu Phi (vốn chỉ XK điều thô) đang có những động thái phát triển ngành chế biến điều nội địa, chắc chắn cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới ngành hàng điều của Việt Nam trong tương lai.

Tuy nhiên, ý kiến chung của nhiều doanh nhân ngành điều cho thấy Việt Nam vẫn có thể tin tưởng vào sự tăng trưởng XK của hạt điều. Bởi về mặt nguyên liệu, so với Trung Quốc, Việt Nam có một lợi thế rất lớn là có vùng nguyên liệu đáp ứng được tới gần một nửa công suất chế biến. Còn so với các nước châu Phi, hạt điều của Việt Nam có chất lượng tốt hơn hẳn.

Thương hiệu hạt điều Việt Nam đã được biết tới và khẳng định rộng rãi trên thị trường thế giới, vì thế mới có câu “Nói tới hạt điều là nghĩ tới Việt Nam”. Các khách hàng khi muốn mua nhân điều chất lượng tốt, sản lượng lớn, giá cả hợp lý thì thường sẽ tìm đến cái “chợ” điều lớn nhất chính là Việt Nam.

Một điều cũng rất quan trọng là Việt Nam đã hình thành được một ngành công nghiệp chế biến điều mà chủ yếu bằng máy móc, công nghệ trong nước, giúp giảm được khá nhiều công lao động, giảm mạnh chi phí sản xuất, tỷ lệ nhân thu hồi cao, tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt … Đi kèm với đó là hệ thống các dịch vụ hỗ trợ như logistic, kho bãi, đóng gói… hiện đã khá tốt, trong khi các nước châu Phi còn rất yếu kém cả về chế biến lẫn dịch vụ hỗ trợ.

Trung Quốc thì đáng ngại hơn châu Phi vì cái gì họ cũng làm được, nhất là máy móc, công nghệ, và thực tế họ cũng đã thực sự bắt tay vào chế biến điều từ nguồn nguyên liệu NK. Nhưng Trung Quốc gặp phải hạn chế lớn những khâu ban đầu (cắt, bóc vỏ …) họ gần như đang phải buông vì mất rất nhiều thời gian, công sức. Thành ra, các doanh nghiệp Trung Quốc cũng đang phải làm như các doanh nghiệp ở những thị trường lớn khác là Mỹ, EU …, tức là chủ yếu NK nhân điều về rang, chiên, chỉ có thể NK ít điều thô về chế biến ngay từ đầu như Việt Nam.

Do đó, họ vẫn phải phụ thuộc vào nguồn nhân điều NK, trong đó có nguồn cung quan trọng là Việt Nam.

Bởi vậy, cũng như trong nhiều năm qua, trong những năm tới, đối thủ chính của nhân điều Việt Nam vẫn sẽ là Ấn Độ. Mà với đối thủ này, Việt Nam lại đang có nhiều lợi thế hơn, nhất là về chi phí, giá thành sản xuất. Bằng chứng là nhiều doanh nghiệp Ấn Độ đã phải sang Việt Nam đầu tư xây dựng nhà máy chế biến điều vì giá thành ở nước ta thấp hơn nhiều so với bên nước họ.

Gia tăng sản phẩm chế biến sâu, đảm bảo VSATTP

Để tiếp tục gia tăng giá trị XK một cách bền vững, giữ được vị thế nước XK điều số 1 thế giới, ngành điều cần phải đẩy mạnh chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng thay vì vẫn đang XK phần lớn là nhân điều sơ chế như hiện nay. Đồng thời phải quan tâm, kiểm soát chặt chẽ hơn về ATTP trong chế biến nhân điều để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe từ các thị trường khó tính.

Hiện nay, số lượng cơ sở chế biến điều ở nước ta khá nhiều, trong đó có hàng trăm cơ sở chỉ được xếp loại B, C về điều kiện đảm bảo ATTP. Nhưng lại chưa có chế tài, giải pháp nào để bắt buộc các cơ sở hạng C, hạng B phải cải thiện điều kiện sản xuất để đảm bảo ATTP ngang tầm với các cơ sở xếp hạng B, hạng A.

Vì vậy nhiều cơ sở không đảm bảo ATTP vẫn đang tiếp tục chế biến điều, góp phần gây tổn hại tới uy tín chung của hạt điều Việt Nam, mà vẫn không lo bị xử phạt hay bị buộc phải đóng cửa.

Ông Đặng Hoàng Giang – Phó Chủ tịch Vinacas: Siết chặt chất lượng điều thô nhập khẩu

Hiện nay, ngành điều vẫn còn chạy theo số lượng, vì thế, mỗi năm phải NK khá nhiều điều thô. Về lâu dài, điều này tiềm ẩn những rủi ro không nhỏ.

Chẳng hạn nếu xuất hiện thêm một nước nào đó cạnh tranh với Việt Nam về chế biến nhân điều, thì chắc chắn việc NK điều thô của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ trở nên khó khăn hơn.

Do đó, ngành điều cần có sự điều chỉnh lại, thay vì chạy theo số lượng thì đi sâu vào chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm XK.

Theo tôi, nếu giảm chế biến từ 1,3 triệu tấn điều thô mỗi năm như hiện nay xuống còn khoảng 500 ngàn tấn, ngành điều Việt Nam sẽ giảm khá nhiều lượng điều thô NK. Lúc ấy, các doanh nghiệp tập trung vào chế biến sản phẩm nhân điều chất lượng cao và các sản phẩm chế biến sâu, thì giá trị XK và lợi nhuận sẽ được nâng cao hơn nhiều.

Một điều đáng lo ngại trong NK điều thô hiện nay là không được kiểm soát tốt về chất lượng.

Điều thô NK về Việt Nam tuy phải qua kiểm dịch thực vật nhưng nhiều khi vẫn còn khá hình thức. Trong khi đó, những chỉ tiêu quan trọng khác như độ ẩm, tỷ lệ nhân thu hồi, ATTP … thì gần như đang bị buông lỏng.

Vì thế, đã có không ít lô điều thô NK có chất lượng rất kém. Nhà nước cần phải tăng cường kiểm soát chất lượng điều thô NK, đưa ra các quy chuẩn, tiêu chuẩn đối với điều thô NK như độ ẩm là thế nào, tỷ lệ nhân thu hồi phải từ bao nhiêu trở lên, chỉ tiêu ATTP ra sao …

Khi đưa ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn để siết lại chất lượng điều thô NK, chắc chắn giá điều thô NK về Việt Nam sẽ tăng lên, qua đó đẩy giá điều thô trong nước lên, giúp người trồng điều Việt Nam gia tăng được lợi nhuận nên sẽ yên tâm hơn trong việc gắn bó với cây điều.

Tuy giá điều thô NK tăng nhưng chất lượng cũng sẽ được nâng cao, thì sản phẩm chế biến từ nhân điều NK sẽ được giá hơn. Như vậy, nếu chất lượng điều thô NK được siết chặt lại, cả doanh nghiệp lẫn người trồng điều Việt Nam đều được lợi.

 

Xem thêm
Bàn cách tận dụng hết dư địa cho tinh dầu quế

HÀ NỘI Thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và chuyên môn, quy trình sản xuất chưa hoàn thiện và chưa có phương pháp tiếp cận thị trường toàn cầu là khó khăn chung của ngành quế.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Tập đoàn PAN đặt doanh thu 14.700 tỷ năm 2024 với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên

Trước lo ngại về biến đổi khí hậu, khó khăn chung của bối cảnh kinh tế, Tập đoàn PAN đặt mục tiêu doanh thu thận trọng tăng 12% với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm