Người tiêu dùng ngày càng quan tâm “cách thức làm ra sản phẩm”
Ngày 23/5, tại Hà Nội, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (NAFIQPM) tổ chức cuộc họp lần thứ nhất của Tổ đàm phán, mở cửa và phát triển thị trường nông lâm thủy sản thuộc Ban Chỉ đạo chất lượng, an toàn thực phẩm và phát triển thị trường.
Ông Nguyễn Như Tiệp, Cục trưởng NAFIQPM, Tổ trưởng Tổ đàm phán, mở cửa và phát triển thị trường nông lâm thủy sản chủ trì.
Cuộc họp có sự tham gia của các thành viên Tổ công tác theo Quyết định số 1064/QĐ-BNN-CCPT ngày 12/4/2024 của Bộ NN-PTNT.
Tại cuộc họp, bà Phạm Thị Lâm Phương, đại diện Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) cho biết, 3 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản của nước ta đạt 12,25 tỷ USD, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2023 và chiếm khoảng 13,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Hiện nay, xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam sang các thị trường cũng đang gặp phải một số khó khăn như: Nhu cầu nhập khẩu của các thị trường lớn của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Anh đang có xu hướng giảm do tình trạng lạm phát tăng cao ở hầu hết các quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp tăng, kinh tế vĩ mô nhiều nước còn bất ổn.
Người tiêu dùng tại các thị trường ngày càng quan tâm không chỉ tới nguồn gốc, chất lượng thực phẩm mà còn quan tâm đến cách thức làm ra sản phẩm, hay cách doanh nghiệp đối xử với người lao động, môi trường và xã hội.
Những bất ổn liên quan đến căng thẳng địa chính trị khu vực và toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp; giá đầu vào các nguyên liệu nhập khẩu vẫn đang ở mức cao.
Sản phẩm nông sản Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là hàng đông lạnh, nguyên liệu thô hoặc sơ chế qua, sản phẩm chế biến sâu có giá trị cao vẫn còn ít. Đối với hàng thủy sản sang EU, từ năm 2017, Việt Nam đã nhận cảnh báo "thẻ vàng" của Ủy ban châu Âu về IUU.
"Đặc biệt, cạnh tranh giữa các thị trường xuất khẩu có thể gia tăng khi nhiều quốc gia quan tâm tới việc ký kết, gia nhập các FTA như: Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Canada khởi động từ tháng 8/2022 mang lại lợi thế cho các nhà cung cấp như Indonesia hay Philippines; hay việc một số nền kinh tế đã bày tỏ sự quan tâm tới việc gia nhập Hiệp định CPTPP...”, bà Phương nhấn mạnh.
Quả bưởi xuất khẩu sang Nhật Bản khó khăn nhất
Đây là thông tin được ông Nguyễn Quang Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ NN-PTNT) chia sẻ tại cuộc họp.
Cũng theo ông Hiếu, trong thời gian tới, Cục Bảo vệ Thực vật sẽ tiếp tục tích cực trong công tác đàm phán và mở cửa thị trường.
Với thị trường Trung Quốc, Cục Bảo vệ Thực vật sẽ ưu tiên đàm phán để mở cửa đối với mặt hàng dừa tươi và sầu riêng đông lạnh, trong khi vẫn tiếp tục làm việc để hoàn thiện dự thảo Nghị định thư đối với quả mít.
Quả mít là mặt hàng truyền thống đang xuất khẩu chính ngạch, nhưng phải thực hiện ký kết Nghị định thư theo lộ trình chuẩn hóa quy định đã thống nhất với Hải quan Trung Quốc. Tiếp sau quả mít sẽ là nhãn, vải, chôm chôm.
Riêng với dược liệu, Trung Quốc đã gửi dự thảo Nghị định thư. Cục Bảo vệ Thực vật đang rà soát và lấy ý kiến góp ý các bên liên quan và thúc đẩy ký kết. Tuy nhiên mặt hàng này có những đặc thù riêng nên còn nhiều khó khăn liên quan đến các đơn vị khác.
Với thị trường Hoa Kỳ, sau mặt hàng dừa, chanh leo sẽ tiếp tục được mở cửa. Tuy nhiên hiện nay Cục Bảo vệ Thực vật đang đề xuất Hoa Kỳ mở rộng thêm các biện pháp xử lý, trên cơ sở các biện pháp đã được các nước khác công nhận gồm: Xử lý lạnh đối với nhãn của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ; xử lý hơi nước nóng đối với xoài, thanh long; xử lý Methyl Bromide đối với vải.
“Quả bưởi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là khó khăn nhất, vì Nhật Bản yêu cầu thực hiện một thí nghiệm kiểm chứng mà không sử dụng lại kết quả thí nghiệm từ các nước khác. Thí nghiệm này có 4 giai đoạn, thời gian kéo dài khoảng 1 năm. Chính vì vậy sẽ mất nhiều thời gian hơn, trong năm nay dự kiến khó hoàn thành được”, ông Hiếu nhấn mạnh.
Ngoài ra, ông Hiếu cũng chia sẻ thêm một số khó khăn trong công tác đàm phán, mở cửa thị trường hiện nay đối với một số sản phẩm trồng trọt như: Quy định kiểm dịch thực vật của các nước thay đổi thường xuyên và ngày càng khắt khe hơn; các nước có xu hướng áp dụng nhiều biện pháp phi thuế quan mới đối với hàng nông sản.
Quy trình đánh giá nguy cơ dịch hại kéo dài, tốn nhiều thời gian, công sức và kinh phí. Thiếu vùng trồng tập trung quy mô lớn đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
Người sản xuất, doanh nghiệp xuất khẩu hiểu biết hạn chế; và chưa nhận thức đúng về việc tầm quan trọng của việc phải tuân thủ các yêu cầu của nước nhập khẩu...
Đặc biệt, ông Hiếu băn khoăn "về các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu trong tương lai", cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu nhập khẩu của người sản xuất và doanh nghiệp.
Ưu tiên những sản phẩm nào, thị trường nào?
Đối với việc mở cửa sản phẩm thủy sản sang các nước có nhu cầu nhập khẩu lớn, ông Đặng Văn Vĩnh, Phó trưởng phòng An toàn thực phẩm, NAFIQPM thông tin, hiện nay có 25 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu thẩm định, chứng nhận an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu; có 13 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu lập danh sách cơ sở chế biến xuất khẩu thủy sản.
Ông Vĩnh cũng chia sẻ thêm một số vướng mắc mà xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang gặp phải tại các thị trường nhập khẩu chính. Chẳng hạn như, tại EU, hiện nay, chỉ có các cơ sở chế biến xuất khẩu trong danh sách được EU công nhận mới được phép xuất khẩu.
EU yêu cầu chặt chẽ đối với sản phẩm nhập khẩu (về chứng thư, kiểm soát theo cả chuỗi), yêu cầu sản phẩm cá ngừ ngâm trong nước muối chỉ được dùng cho công nghiệp đồ hộp…
Tại thị trường Brazil, thị trường này quy định chỉ cho phép sử dụng phụ gia phosphates bên ngoài lớp mạ băng đối với sản phẩm thủy sản (bao gồm cá và tôm).
Không quy định chế độ xử lý nhiệt theo từng chỉ tiêu bệnh tôm mà quy định chung chế độ xử lý nhiệt cho từng loại sản phẩm…
Hay tại thị trường Ả rập - Xê út, hiện nay phía Ả rập Xê út đang áp dụng lệnh tạm đình chỉ với toàn bộ thủy sản nuôi của Việt Nam.
Cục trưởng NAFIQPM Nguyễn Như Tiệp chia sẻ, thời gian qua, không phải chúng ta không tiếp cận được nhiều thị trường. Chúng ta đã xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản đến rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu thu về được hơn 53 tỷ USD, nhưng con số này vẫn còn khiêm tốm so với tiềm năng, lợi thế của chúng ta.
“Một số thị trường nói ở đây chỉ quanh đi quanh lại”, việc đàm phán, mở cửa ở một số thị trường khác như Nhật Bản, Trung Đông… vẫn còn nhiều khó khăn, ông Tiệp nhấn mạnh.
Cũng theo ông Tiệp, ngoài các thị trường lớn, thị trường truyền thống cần quan tâm hơn nữa đến các thị trường tiềm năng, thị trường ngách và cả thị trường nội địa vốn còn rất nhiều tiềm năng.
Ông Tiệp cho hay, thời gian tới, trước mắt sẽ tiến tới xây dựng một bản Dự thảo phân công công việc cụ thể cho từng thành viên của Tổ đàm phán, mở cửa và phát triển thị trường nông lâm thủy sản, nhằm phát huy thế mạnh theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị.
Về lâu dài, tiến tới xây dựng dữ liệu thông tin thị trường, quan trọng trong đó là các thông tin về dung lượng thị trường, nhu cầu thị trường và thị hiếu thị trường…
Bên cạnh đó, tăng cường công tác truyền thông quảng bá để tăng uy tín sản phẩm nông lâm thủy sản của chúng ta.
Ngoài ra, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, ngành Nông nghiệp và ngành Công thương cần sự phối hợp chặt chẽ, cần xây đựng đề án để phối hợp trao đổi, nhằm sử dụng nguồn kinh phí xúc tiến thương mại sao cho hiệu quả nhất.
“Hiện nay trên các kênh truyền thông quốc tế gần như chưa có quảng bá hình ảnh nông sản Việt Nam. Thái Lan làm được tại sao chúng ta không làm được?”, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường Nguyễn Như Tiệp nói.