| Hotline: 0983.970.780

Nuôi hải sản đảo Cát Bà: Mừng và lo!

Thứ Ba 28/11/2017 , 13:55 (GMT+7)

Với lợi thế trời phú, nghề nuôi hải sản lồng bè ở các vịnh ở đảo Cát Bà (huyện đảo Cát Hải, Hải Phòng) đã giúp đổi đời cho hàng nghìn ngư dân quy tụ về đây. Tuy nhiên, sự suy thoái về chất lượng môi trường nước đang là vấn đề ngày càng đe dọa tới nghề nuôi hải sản.

Hết long đong nhờ lồng bè

Ở phía Bắc, có lẽ chẳng ở đâu thiên nhiên lại ưu ái kiến tạo ra những vịnh kín, thuận lợi cho nuôi hải sản như ở đảo Cát Bà. Suốt dọc từ vịnh Bến Bèo (thị trấn Cát Bà) đi thuyền máy hơn 30 phút trở ra vịnh Lan Hạ, những hòn đảo đá đẹp ngang ngửa Vịnh Hạ Long. Đây vừa là thiên đường cho du lịch, lại tạo thành những vòng cung chắn sóng, che chở cho các vũng vịnh phía trong. Mùa mưa bão, sóng gió ngoài cửa vịnh gào thét, nhưng vào trong vịnh thì vẫn lặng như tờ. Nhờ sự ưu đãi của tự nhiên, vịnh Bến Bèo và Lan Hạ hiện là nơi tập trung chủ yếu của nghề nuôi hải sản của huyện đảo Cát Hải, với khoảng 500 bè.

16-25-36_1
Nuôi hải sản đã đổi đời cho nhiều hộ dân ở đảo Cát Bà. Ảnh: Quỳnh Trang

Những ngày cuối năm này đang là thời vụ thu hoạch chính của những bè nuôi hải sản ở đây, không khí cứ vui như hội. Năm nay, cá song – đối tượng nuôi chủ lực của các lồng bè ở Cát Bà rất có giá và ổn định ở mức trung bình khoảng 200 nghìn đồng/kg, giúp người nuôi có lãi khá. Cơ cấu giống cá nuôi ở khu vực các vịnh Bến Bèo, Lan Hạ hiện khá đa dạng như cá vược, cá sủ, cá song, cá giò..., trong đó cá song và cá giò vẫn là đối tượng nuôi chính. Đặc biệt khoảng 2 năm trở lại đây, cá song lai là đối tượng nuôi mới nổi lên nhờ nhiều ưu điểm về sinh trưởng và dễ tiêu thụ, giá cả luôn ổn định.

Ông Vũ Văn Vóc, một chủ bè có hơn 40 ô lồng nuôi cá tại vịnh Bến Bèo phấn khởi cho biết, từ đầu năm đến nay, bè của ông đã xuất bán được khoảng 1,6 tỉ đồng, từ nay đến cuối năm sẽ xuất bán tiếp khoảng 3 tỉ đồng. Theo ông Vóc, ngoài điều kiện tự nhiên ít rủi ro, khu vực vịnh Cái Bèo cũng là nơi có cảng tàu cá neo đậu, vì vậy nguồn cung cá tạp (thường là cá trích, cá nục) dùng làm nguyên liệu cho nuôi cá lồng rất dồi dào. Ở đây đã hình thành khoảng trên dưới 10 chủ cơ sở chuyên thu mua, cung cấp cá tạp.

Hộ ông Vóc là một trong những hộ đầu tiên đưa cá song lai vào nuôi ở vịnh Bến Bèo cách đây gần 3 năm. Bè của ông đang có trên 7.000 con song lai đã đến kỳ thu hoạch. Ông phân tích: Ưu điểm của song lai là khả năng nuôi mật độ cao, trung bình cá trưởng thành có thể tới 500 con/ô lồng (kích cỡ ô lồng 3x3x3 m), quy ra mỗi ô lồng có thể nuôi tới 1 – 1,5 tấn cá/lứa. Song lai cũng là đối tượng dễ nuôi, ít bị bệnh.

Với chi phí thức ăn trung bình từ 6-7 kg thức ăn/kg tăng trọng, sau 2 năm nuôi, song lai có thể đạt trọng lượng từ 2,5-3 kg/con, với giá trung bình 200 nghìn đồng/kg, trừ hao hụt và chi phí các loại, có thể lãi tới 40% trên tổng chi phí đầu tư. “Các đối tượng nuôi khá đa dạng, nhưng lợi nhuận trung bình cũng phải từ 30-40% trên tổng đầu tư. Bình quân mỗi bè có từ 30 – 50 ô lồng, mỗi năm cũng phải lãi từ 300-500 triệu đồng mới bõ công nuôi” – ông Vóc thú thực.

Mới đây, cầu Tân Vũ – Lạch Huyện nối đất liền của TP Hải Phòng với huyện đảo Cát Hải đã khánh thành, lượng khách du lịch ra đảo Cát Bà theo đó đang càng ngày càng tăng chóng mặt. Đảo Cát Bà cũng vừa long trọng tổ chức lễ mừng đón vị khách du lịch thứ 2 triệu tới đây trong năm 2017. Vui thật, nhưng người nuôi thủy sản thì lại ngày càng lo về vấn đề môi trường. (QT)

Hộ ông Vóc cùng với hàng trăm chủ lồng bè ở vịnh Bến Bèo trước đây đa số là ngư dân đi biển. Quê gốc của họ trước đây không phải ở huyện đảo Cát Hải mà là ở huyện Thủy Nguyên, nhiều nhất là các xã có nghề đánh bắt như Lập Lễ, Phả Lễ. Khoảng chục năm về trước, nghề nuôi hải sản ở Cát Bà manh nha, những ngư dân ở Thủy Nguyên dần bỏ nghề đi biển, chuyển hẳn sang nuôi lồng bè. Trong số gần 500 bè nuôi ở đảo Cát Bà thì dân gốc Thủy Nguyên chiếm tới 50-60%, số còn lại là ngư dân từ Quảng Ninh sang đầu tư nuôi và chỉ có một số ít là dân gốc ở đảo Cát Bà. Bây giờ, những ngư dân của Thủy Nguyên ra Cát Bà đầu tư nuôi lồng bè đã nhập hộ khẩu hẳn về huyện đảo Cát Hải, nhưng nhà cửa của họ thì vẫn ở Thủy Nguyên.

“Trước đây, nghề biển long đong lắm. Đánh bắt bữa đực bữa cái. Nuôi lồng bè được cái nhàn, chẳng phải sóng gió, lợi nhuận mỗi năm bèo cũng 100-200 triệu đồng, hơn đi biển nhiều. Nếu không có nghề nuôi lồng bè, chắc giờ vẫn còn khổ dài” – anh Nguyễn Đức Thạnh, một chủ bè ở vịnh Lan Hạ kể.
 

Không sợ bão, chỉ sợ bệnh

Quê gốc của anh Nguyễn Đức Thạnh ở xã Lập Lễ (huyện Thủy Nguyên). Anh là một trong những ngư dân đầu tiên ở Lập Lễ bỏ nghề đi biển ra vịnh Lan Hạ làm bè nuôi hải sản cách đây gần chục năm. Lúc ấy, khu vực vịnh Bến Bèo gần bờ, tiện cho nuôi lồng bè đã chật kín bè nuôi, nên những người đến sau đành phải đóng bè xa bờ hơn ngoài vịnh Lan Hạ. Bây giờ, khu vực vịnh Lan Hạ đã có khoảng trên 100 bè nuôi. Vịnh Lan Hạ xa bờ, phải mất hơn 30 phút đi thuyền mới ra tới nơi, nhưng nhờ đó bây giờ lại trở thành lợi thế do nguồn nước chưa bị tác động ô nhiễm, có thể nuôi được những đối tượng mà khu vực gần bờ không thể nuôi.

16-25-36_2
Nguồn nước ô nhiễm đang là nỗi lo lớn của người nuôi lồng bè ở đảo Cát Bà (trong ảnh: Tắm cho cá bị nhiễm ký sinh trùng). Ảnh: Quỳnh Trang

Năm nay, cùng với cá song lai, bè của anh Nguyễn Đức Thạnh còn nuôi khoảng trên 2.000 con cá giò. Cá giò cũng là đối tượng nuôi chủ lực ở khu vực vịnh Lan Hạ mà vùng nuôi ở vịnh Bến Bèo hiện nay không thể nuôi được nữa. Theo anh Thạnh, cá giò chất lượng thơm ngon, được thị trường rất ưa chuộng với giá bán ổn định từ 130-140 nghìn đồng/kg. Đây là loài cá rất nhanh lớn, nuôi 12 tháng đã có thể đạt trọng lượng trung bình 3 kg/con. Đặc biệt, đây là loài cá có tỉ lệ hao hụt trong quá trình nuôi rất thấp, chỉ khoảng 20% nên tỉ suất lợi nhuận khi nuôi cá giò thuộc loại cao nhất hiện nay. Tuy nhiên, đây cũng là loài cá rất khó tính với điều kiện môi trường nuôi.

Những ông chủ lồng bè ở Cát Bà đến giờ vẫn còn chưa quên đợt dịch bệnh khủng khiếp bùng phát hồi năm 2008-2009. Nhiều chủ bè đận ấy tán gia bại sản do cá đột ngột chết hàng loạt. Hải sản 2 mảnh vỏ như nghêu, sò, hàu từng là đối tượng nuôi lừng lẫy một thời của các lồng bè hồi mới lập nghiệp ở vịnh Bến Bèo thì tới nay, số hộ nuôi chỉ còn đếm trên đầu ngón tay do rủi ro về dịch bệnh. Hiện vùng nuôi nghêu, hàu chỉ có thể phát triển được ở khu vực vịnh Gia Luận, nơi rất ít dân cư và gần như tách biệt. Đặc biệt từ khoảng 5 năm trở lại đây, cá giò, đối tượng nuôi chủ chốt trước đây đã không còn nuôi được ở khu vực vịnh Bến Bèo nữa. Không ai biết nguyên nhân do đâu, có thể môi trường do cá giò sống ở tầng nước mặt, rất cần ô xy và vô cùng nhạy cảm với sự thay đổi chất lượng nguồn nước.

“Nuôi hải sản ở đây không sợ bão, chỉ sợ bệnh. Nếu như trước đây, tỉ lệ hao hụt chỉ khoảng 20-30% thì nay, đa số các đối tượng nuôi hao hụt tới 50-60%, đặc biệt ở giai đoạn năm đầu tiên xuống giống. Trung bình, thả 10 con giống tới khi thu hoạch còn lại 4 con thôi đã là mừng lắm rồi” – anh Vũ Văn Đạt, một chủ bè ở vịnh Bến Bèo cho biết.

Cùng với vi khuẩn vibrio gây hại trên các loài cá nuôi lồng bè, những năm gần đây, các vùng nuôi lồng bè ở đảo Cát Bà cũng xuất hiện thêm nhiều loại ký sinh trùng gây hại. Trạm SX giống hải sản của Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1) nằm tách biệt ở ngoài cùng vịnh Lan Hạ nhưng cũng không tránh khỏi bị ký sinh trùng gây hại đàn cá bố mẹ.

Anh Phạm Văn Thìn, phụ trách trại cá bố mẹ của trung tâm này cho biết khoảng 2-3 năm trở lại đây, loại ký sinh trùng màu xám, hình dạng giống như đỉa sinh sôi rất mạnh ở các vùng nuôi lồng bè ở đây. Trung bình, cứ 7-10 ngày đã phải tắm cho cá bằng chế phẩm xử lí để diệt ký sinh trùng này. Một số vùng có mật độ nuôi dày ở vịnh Bến Bèo, loài “đỉa biển” này còn bùng lên khủng khiếp hơn, có khi 3-4 ngày chúng đã bám đầy cá nuôi. (LB)

 

Xem thêm
Bàn cách tận dụng hết dư địa cho tinh dầu quế

HÀ NỘI Thiếu hụt nhân lực có kỹ năng và chuyên môn, quy trình sản xuất chưa hoàn thiện và chưa có phương pháp tiếp cận thị trường toàn cầu là khó khăn chung của ngành quế.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Tập đoàn PAN đặt doanh thu 14.700 tỷ năm 2024 với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên

Trước lo ngại về biến đổi khí hậu, khó khăn chung của bối cảnh kinh tế, Tập đoàn PAN đặt mục tiêu doanh thu thận trọng tăng 12% với các giải pháp nông nghiệp thuận thiên.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm