Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đang tăng
Tại Hội nghị “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc vảo vệ thực vật sinh học” do Bộ NN-PTNT tổ chức ở TP.HCM ngày 2/11, ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật, cho biết, đến nay, trong Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam, có 810 tên thuốc BVTV sinh học.
Công nghệ sinh học ở Việt Nam hiện nay đang được ưu tiên và đưa lên quy mô công nghiệp, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong lĩnh vực thuốc BVTV, công nghệ sản xuất thuốc BVTV sinh học là một trong những công nghệ sản xuất được chú trọng và ngày càng được ứng dụng nhiều vào trong sản xuất.
Những công nghệ sản xuất thuốc BVTV sinh học hiện nay, bao gồm: Công nghệ vi sinh, công nghệ tách chiết từ thực vật, công nghệ sản xuất thuốc thành phẩm từ hoạt chất thuộc nhóm hóa sinh.
Điều đáng chú ý là đại đa số cơ sở sản xuất thuốc BVTV đã sản xuất thuốc BVTV sinh học. Cụ thể, hiện nay, có 99 cơ sở đủ điều kiện sản xuất thuốc BVTV quy định, trong đó có 85 cơ sở sản xuất có sản xuất thuốc BVTV sinh học, bao gồm thuốc BVTV vi sinh vật, thảo mộc và các thuốc nhóm hóa sinh ...
Các cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học đều áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001, hệ thống quản lý môi trường đạt ISO 14001 và phần lớn các cơ sở đều có phòng thử nghiệm kiểm tra chất lượng được công nhận phù hợp ISO 17025.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã sản xuất được gần 30 dạng thuốc BVTV thành phẩm khác nhau, đặc biệt trong đó có rất nhiều dạng tiên tiến và an toàn cho con người như dạng hạt phân tán trong nước, dầu phân tán, đậm đặc tan trong nước, dạng hạt (WG, OD, SL, GR,…).
Bên cạnh đó, các công nghệ sản xuất thuốc BVTV sinh học phổ biến trên thế giới đã được đăng ký, sản xuất và ứng dụng tại Việt Nam như: sản xuất thuốc BVTV sinh học nano, sản xuất thuốc BVTV sinh học chiết xuất từ thảo mộc, sản xuất thuốc BVTV sinh học chứa các vi sinh vật, các thuốc có nguồn gốc virus hay nguồn gốc từ tuyến trùng …
Đặc biệt, về sử dụng thuốc BVTV, số liệu từ các địa phương cho thấy trong 3 năm gần đây (2020-2022) tổng lượng thuốc BVTV sử dụng trung bình cả nước đang xu hướng giảm dần qua các năm từ 3,81 kg/ha năm 2020 giảm xuống 3,19 kg/ha năm 2022. Trong đó, lượng thuốc BVTV sinh học sử dụng trung bình trên cả nước vẫn được sử dụng ở mức ổn định và có xu hướng tăng từ 16,67% năm 2020 lên 18,49% năm 2022.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Trung cho rằng, những thông tin về tình hình sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học như trên là cơ sở ban đầu, là nền tảng quan trọng để đẩy mạnh phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học trong thời gian tới.
Tạo cơ chế thuận lợi cho thuốc BVTV sinh học
PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật, cho rằng, cần xác định mục đích chính của việc thúc đẩy sản xuất, sử dụng thuốc BVTV sinh học là nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ thực vật, giảm sử dụng hóa chất, đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp bền vững.
Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần coi trọng cả 3 hướng đi chính bao gồm: Phát triển sản xuất, sử dụng thuốc sinh học trong nước; nhập khẩu, sử dụng các loại thuốc sinh học chất lượng tốt, hiệu quả cao; hướng dẫn, hỗ trợ nông dân tự sản xuất thuốc sinh học quy mô nông hộ, trang trại, tổ hợp tác hoặc HTX.
Nhằm thúc đầy sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV sinh học trong nước, các đại biểu đã đề xuất nhiều giải pháp thiết thực, trong đó cần phải đổi mới quy định về quản lý thuốc BVTV tại Việt Nam theo hướng tách riêng nội dung quy định về quản lý đăng ký, sản xuất, sử dụng thuốc BVTV sinh học; cụ thể hóa khái niệm về thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam; bổ sung quy định đối với một số loại thuốc BVTV sinh học mới; đơn giản hóa thủ tục; ban hành danh mục các hoạt chất thuốc BVTV sinh học an toàn được ưu tiên đăng ký nhanh …
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, nhiều nước, khu vực trên thế giới đang áp dụng những giải pháp hay để phát triển sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV, mà Việt Nam có thể học hỏi. Chẳng hạn, tại Hàn Quốc đang phát triển rộng rãi hình thức giới thiệu và bán thuốc BVTV sinh học online, qua đó góp phần thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học. Trong khi cho phép bán thuốc BVTV sinh học online thì Hàn Quốc lại không cho phép áp dụng hình thức bán hàng này đối với thuốc BVTV hóa học.
Tại Thái Lan có quy định về kênh đăng ký nhanh, đồng thời có sáng kiến ban hành Danh mục thuốc sinh học có độ rủi ro thấp. Đối với các sản phẩm được sản xuất từ các hoạt chất trong Danh mục thuốc sinh học độ rủi ro thấp không cần phải thử nghiệm độc lý học, vì vậy thời gian chờ đăng ký được rút ngắn xuống còn khoảng 6-12 tháng. Nhờ vậy, trong năm 2021, số lượng các hoạt chất thuốc sinh học thuộc Danh mục này đã tăng từ 5 lên 17.
Tiến sỹ Tony Alfonso, Chủ tịch Tổ công tác về Thuốc BVTV Sinh học của CropLife Châu Á, cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc triển khai hệ thống pháp lý có tính dự báo và phù hợp đối với thuốc BVTV sinh học để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả nhất quán của sản phẩm mà không làm hạn chế việc giới thiệu và thương mại thuốc BVTV sinh học trên thị trường, trong đó cần có những hướng dẫn đăng ký và quản lý riêng đối với thuốc BVTV và cơ chế kiểm soát chất lượng chặt chẽ.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Trung đánh giá cao tham luận của các đại biểu với những giải pháp thiết thực cho sự phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học ở Việt Nam.
Thứ trưởng khẳng định, Bộ NN-PTNT đánh giá rất cao nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội, địa phương đã đồng hành và tạo ra các kết quả tích cực trong việc đẩy mạnh ứng dụng thuốc BVTV sinh học trong thời gian qua như: xây dựng được các mô hình sử dụng thuốc BVTV sinh học; thay đổi nhận thức, tư duy của người dân; tạo ra các sản phẩm thuốc BVTV sinh học và ứng dụng vào sản xuất.
Bộ NN-PTNT khuyến khích các doanh nghiệp cùng với các cơ quan chuyên môn của Bộ cũng như các địa phương xây dựng các mô hình ứng dụng thuốc BVTV sinh học có hiệu quả trên từng đối tượng cây trồng cụ thể, đặc biệt là những cây trồng chủ lực, và đối với từng sinh vật gây hại. Qua đó đảm bảo rằng dần dần người dân sẽ làm quen với thuốc BVTV sinh học và có thói quen khi cần sử dụng thuốc BVTV là ưu tiên sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Bên cạnh đó, Bộ sẽ lồng ghép việc sử dụng thuốc BVTV sinh học trong các chương trình như phòng trừ dịch hại tổng hợp, quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp, xác lập và lên danh sách các thuốc BVTV sinh học sử dụng trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ ...
Mục tiêu của Bộ NN-PTNT là đến năm 2030, tỷ lệ thuốc BVTV sinh học được đăng ký trong Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam đạt 30% và thuốc sinh học chiếm 20% trong tổng lượng thuốc BVTV sử dụng.