| Hotline: 0983.970.780

Thủy lợi cho thủy sản: Nhu cầu cấp bách

Thứ Ba 12/08/2014 , 09:00 (GMT+7)

Bộ NN-PTNT vừa phối hợp với UBND tỉnh Kiên Giang tổ chức hội nghị chuyên đề "Quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ nhu cầu nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL"

Hội nghị diễn ra tại TP Rạch Giá và do Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng chủ trì.

Báo cáo tại hội nghị, ông Nguyễn Huy Điền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT) cho biết, ĐBSCL hiện có trên 1,3 triệu ha diện tích NTTS, trong đó nuôi nước mặn, lợ 886.249 ha, còn lại là nuôi nước ngọt. Đối tượng nuôi mặn và lợ chủ yếu là tôm sú, thẻ chân trắng, nhuyễn thể và cá biển. Vùng nước ngọt thì cá tra là đối tượng chủ lực, tôm càng xanh và các loài cá bản địa.

Riêng về con tôm, ĐBSCL đóng góp tới 92,5% về diện tích và 79,8% sản lượng trong tổng số 654.000 ha thả nuôi và 540.934 tấn tôm thu được của cả nước trong năm 2013.

Từ đầu năm đến nay, sản lượng tôm thu hoạch đều tăng, nhất là tôm thẻ chân trắng tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ. Tính đến hết tháng 6/2014, ĐBSCL đã thả nuôi được 586.473 ha tôm, sản lượng thu hoạch 222.496 tấn (chiếm gần 92% diện tích và 84,7% sản lượng cả nước).

Về cá tra, năm 2013, ĐBSCL thả nuôi được hơn 52.000 ha, sản lượng thu hoạch 1.150.000 tấn, năng suất đạt từ 200 -300 tấn/ha, cá biệt có nơi đạt tới 500 tấn/ha.

Tôm nuôi và cá tra là 2 mặt hàng thủy sản chủ lực của ĐBSCL có đóng góp to lớn vào kim ngạch XK của cả nước. Trong tổng số 3,45 tỷ USD thu về từ XK thủy sản 6 tháng đầu năm nay, riêng con tôm đã đóng góp 1,7 tỷ USD.

Mặc dù vậy, hiện cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS ở ĐBSCL, nhất là hệ thống thủy lợi còn rất nhiều bất cập, chủ yếu vẫn là dùng chung với hệ thống phục vụ SX nông nghiệp. Vì vậy, ngoài việc tác động đến hiệu quả nuôi còn tiềm ẩn nguy cơ về ô nhiễm môi trường, dịch bệnh… Cơ sở hạ tầng khác như điện, giao thông… phục vụ NTTS chưa được đầu tư nhiều dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu phát triển.

"Thay vì chỉ dựa vào lợi thế đất đai, con người... thì cần tính toán để nâng cao giá trị gia tăng. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học về nâng cao chất lượng con giống, quy trình nuôi, quản lý dịch bệnh…
Song song với quy hoạch, trong điều kiện nguồn vốn có hạn cần tập trung cho những dự án trọng điểm, có tính khả thi cao để triển khai. Bên cạnh nguồn vốn của nhà nước, cần huy động thêm nguồn lực từ các doanh nghiệp, hộ dân SX lớn để đẩy nhanh quá trình đầu tư", Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng.

Ông Nguyễn Xuân Hiền, Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam cho rằng, việc chuyển từ SX lúa sang nuôi tôm ở ĐBSCL phần lớn diễn ra tự phát và quá nhanh chóng, dẫn đến cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được mức độ phát triển của ngành. Đây chính là điểm yếu mang tính khách quan trong quá trình phát triển.

Hơn nữa, SX manh mún, tính cộng đồng và liên kết trong nông dân còn yếu kém, một bộ phận nông dân chưa nhận thức rõ về nguy cơ ô nhiễm môi trường, dẫn đến lây lan dịch bệnh và mất ATVSTP.

Ông Hiền thẳng thắn chỉ ra những bất cập của hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS như quy hoạch chưa có sự gắn kết giữa các ngành, địa phương, dẫn đến chồng chéo; chưa đủ năng lực phân chia “mặn, ngọt”; kênh cấp, thoát nước chung nên chất lượng nước bị ô nhiễm; không đồng bộ nên hiệu quả kém…

Ngoài ra, việc khai thác nước ngầm phục vụ NTTS quá mức gây ra hiện tượng sụt lún đất nghiêm trọng (cụ thể ở Cà Mau).

Theo ông Hiền, để đáp ứng được nhu cầu thủy lợi cho NTTS vùng ĐBSCL trong những năm tới thì cần ít nhất nguồn vốn trên 19.000 tỷ đồng để thực hiện 51 dự án, với tổng diện tích vùng dự án là 600.503 ha. Trong đó, có 12 dự án cần được ưu tiên thực hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 với tổng nguồn vốn gần 8.000 tỷ đồng.

Tại hội nghị, các địa phương đều kiến nghị Bộ NN-PTNT cần lập các dự án và bố trí nguồn vốn để tiếp tục đầu tư xây sựng cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi tôm, xây dựng thệ thống thủy lợi riêng phục vụ NTTS, đầu tư nhiều hơn nữa cho lĩnh vực giống, quan trắc môi trường… Đồng thời, Tổng cục Thủy lợi cần xem xét sớm khởi công và xây dựng mới các dự án thủy lợi phục vụ NTTS mang tính cấp bách tại vùng ĐBSCL.

Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng nhấn mạnh, tiềm năng NTTS ở ĐBSCL là rất lớn, tuy nhiên do hạn chế về cơ sở hạ tầng nên chưa thể phát huy hết. Để phát triển NTTS cần có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó giải pháp cải tạo nguồn nước là rất quan trọng.

Quy hoạch hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS cần gắn với quy hoạch chung về tài nguyên nước, hướng đến phát triển bền vững. Trong quy hoạch, phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu và sự phát triển của KT-XH… để lựa chọn mô hình tăng trưởng cho phù hợp.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Hà Nội bắt chó thả rông, kiên quyết xử lý theo quy định

Tình trạng thả rông chó, mèo tại các khu vực công cộng không có rọ mõm, dây xích, không có người dắt vẫn đang xảy ra trên địa bàn Hà Nội.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm