| Hotline: 0983.970.780

Trồng rau VietGAP

Thứ Ba 19/08/2014 , 08:20 (GMT+7)

SX rau đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) có vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và xuất khẩu nông sản. 

Để có được thực phẩm sạch trên mỗi bàn ăn gia đình cũng như đạt hiệu quả kinh tế trong tiêu thụ... cần phải thực hiện VSATTP từ khâu SX, sơ chế, đóng gói, bảo quản đến tiêu thụ rau.

Mặc dù, quy trình thực hành nông nghiệp tốt cho rau quả tươi của Việt Nam (VietGAP) được ban hành từ năm 2008 và áp dụng vào SX nhưng có rất nhiều cá nhân, tổ chức SX rau quả vẫn chưa nắm và áp dụng được quy trình này, nhất là các vùng nông thôn.

Thực tế cho thấy hầu hết người trồng rau ăn và bán ở nông thôn đều tưởng cứ cách ly được thuốc BVTV cho rau quả theo đúng quy định là đảm bảo rau được an toàn. Vì vậy, để có những kiến thức cơ bản nhất về quy trình SX rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, người trồng rau cần thực hiện và đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu sau đây:

+ Chọn đất trồng rau VietGAP: Vùng đất chọn trồng rau cần phải được cơ quan có thẩm quyền phân tích các nguy cơ ô nhiễm sinh học, hóa học. Nếu đủ điều kiện theo TCVN hoặc đã được khắc phục ô nhiễm thì cơ sở sẽ được cấp giấy chứng nhận để SX rau an toàn.

Để vùng trồng rau VietGAP được duy trì bền vững khi chọn cần cách xa các khu công nghiệp, bệnh viện, nghĩa trang, khu chăn nuôi tập trung và đường quốc lộ. Tiến hành đánh giá lại mức an toàn của vùng SX theo định kỳ 3 năm 1 lần. Nếu bị ô nhiễm cần có biện pháp xử lý.

+ Sử dụng giống và gốc ghép: Nếu hạt hoặc cây giống bị ô nhiễm hóa học (thuốc bảo quản...) có thể tồn dư lâu dài và gây ô nhiễm cho sản phẩm rau.

Do đó, để giảm thiểu mối nguy này người trồng cần phải sử dụng giống rau có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng (mua giống có bao bì nhãn mác hoặc mua cây con hay tự để giống cần có hồ sơ ghi chép rõ ràng các chất đã sử dụng).

+ Quản lý đất và giá thể: Hằng năm phải tiến hành phân tích, đánh giá các mối nguy tiềm ẩn trong đất và giá thể bao gồm các mối nguy sinh học và hóa học. Nếu vượt ngưỡng cho phép thì phải xử lý mối nguy bằng oxy hóa hoặc khử trùng.

+ Sử dụng phân bón và chất bổ sung: Chất bổ sung là các chất kích thích sinh trưởng, kích thích ra hoa đậu quả như GA3, Ethylen...

Phân bón và chất bổ sung tiềm ẩn mối nguy hóa học (phân bón vô cơ) và mối nguy sinh học (phân bón hữu cơ) cho rau quả. Trong đó phân bón vô cơ nhất là phân đạm urê sẽ gây ô nhiễm về dư lượng nitơrat (NO3) cho người sử dụng nếu không được cách ly đúng (NO3 là yếu tố số 1 gây bệnh ung thư cho con người nếu vượt quá sức chịu đựng của cơ thể); Phân lân chứa kim loại nặng (do lân được SX từ quặng); Phân hữu cơ chứa vi khuẩn, virus, ký sinh trùng gây bệnh cho người và vật nuôi.

Khác với SX rau thông thường, SX rau VietGAP cần phải ghi chép và lưu trữ hồ sơ ở mỗi khâu trong quá trình SX (nhật ký SX) mới đảm bảo được VSATTP.

Cho nên, người trồng rau muốn hạn chế tối đa các mối nguy trên cần phải bón phân đúng kỹ thuật (bón vùi phân hữu cơ, cách ly urê sau khi bón tối thiểu 10 ngày, bón đủ liều lượng và không lạm dụng urê; Dùng phân lân có hàm lượng kim loại nặng thấp nhất; Phân chuồng cần phải ủ mục trước khi bón và bón vùi vào đất. Các dụng cụ bón phân phải được vệ sinh và bảo dưỡng định kỳ...).

+ Nước tưới và nước rửa sản phẩm: Khác với SX rau thông thường, SX rau VietGAP đòi hỏi nước tưới và nước rửa phải riêng biệt (nước tưới rau yêu cầu là nước an toàn nhưng nước rửa rau phải là nước sạch - nước máy). Tuyệt đối không dùng nước giếng khoan chứa kim loại nặng hoặc nước bị ô nhiễm như nước thải từ khu dân cư, bệnh viện, nước phân tươi... để tưới rau.

+ Dùng thuốc BVTV và các hóa chất khác: Mối nguy hóa học sẽ xảy ra cho rau quả khi người SX không áp dụng đúng các quy định về sử dụng thuốc BVTV.

Để giảm thiểu mối nguy hóa học cho rau quả, người trồng cần phải tuân thủ các quy định trong khi sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc 4 đúng... Chú trọng áp dụng theo hướng IPM trên rau và thiên về phương pháp dùng bẫy bả, thuốc sinh học để hạn chế dịch hại.

Chỉ sử dụng thuốc hóa học khi cần thiết, lựa chọn các thuốc có trong danh mục của Nhà nước, thuốc có bao bì nhãn mác, có độ độc trung bình, tuân thủ thời gian cách ly theo nhà SX, pha chế, hỗn hợp thuốc đúng kỹ thuật, quản lý bao bì và thuốc tồn đọng...

+ Thu hoạch và xử lý sau thu hoạch: Nguy cơ ô nhiễm hóa học, sinh học và vật lý sau thu hoạch sẽ xảy ra nếu người SX không giảm thiểu được những mối nguy này.

Vì vậy, trong quá trình thu hoạch và sơ chế, đóng gói sản phẩm người trồng cần chú ý vệ sinh thường xuyên nhà xưởng, trang thiết bị, không sử dụng nước tưới để rửa rau, không để sản phẩm rau quả trực tiếp xuống đất, không đeo trang sức, phòng chống an toàn dịch hại khu nhà xưởng và kho bảo quản rau, bóng đèn trong nhà xưởng phải có mạng bảo vệ, vệ sinh cá nhân sao cho tốt...

Có như vậy mới đảm bảo được sản phẩm rau quả an toàn từ ngoài đồng đến bàn ăn.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Mùa vàng trên cánh đồng sạ cụm

QUẢNG BÌNH Mô hình gieo sạ lúa bằng máy tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Hàm Hòa trong vụ đông xuân 2023 - 2024 với diện tích trên 10ha cho hiệu quả lớn…

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm